Tham dự và đóng góp ý kiến tại Hội nghị sơ kết hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2023 diễn ra ngày 15/7, ý kiến của các đại diện ngân hàng tuy đề cập đến nhiều khía cạnh đa dạng trong hoạt động nhưng tựu chung lại đều toát lên tinh thần đồng thuận nhằm thực hiện có trách nhiệm các nhiệm vụ của ngành.
Ông Võ Minh Tuấn - Giám đốc NHNN chi nhánh TP. Hồ Chí Minh
Ngành Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh đã thực hiện nghiêm túc, kịp thời các chỉ đạo của Chính phủ, của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và của UBND thành phố về chính sách tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp (DN), chính sách tiền tệ, tín dụng, lãi suất, tỷ giá…
NHNN Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh đồng thời bám sát diễn biến thị trường, tình hình hoạt động của các TCTD, nhận diện các rủi ro, dự báo các tình huống phát sinh, cảnh báo, khuyến cáo, xử lý kịp thời đối với các đơn vị có hoạt động tiềm ẩn rủi ro, nhờ đó giữ ổn định thị trường tiền tệ hoạt động ngân hàng trên địa bàn.
Trong 6 tháng đầu năm, thực hiện chỉ đạo của NHNN, NHNN Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh cùng các NHTM phối hợp với các sở, ngành thành phố đã tổ chức 16 hội nghị kết nối ngân hàng- doanh nghiệp kết hợp đối thoại để truyền thông chính sách, tăng 2,2 lần so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: 1 Hội nghị vùng Đông Nam Bộ; 3 Hội nghị chuyên đề cấp Thành phố; 12 Hội nghị tại quận, huyện, TP Thủ Đức. Tổng chương trình kết nối trên địa bàn đã thực hiện được 406.000 tỷ đồng cho hơn 88.000 khách hàng.
Ngoài ra, các NHTMCP có trụ sở chính tại TP. Hồ Chí Minh tích cực thực hiện chủ trương giảm lãi suất cho vay, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư 02/2023/TT-NHNN. Qua báo cáo nhanh từ các TCTD trên địa bàn đến cuối tháng 5/2023, số dư nợ gốc và lãi được cơ cấu đạt khoảng 6.800 tỷ đồng cho khoảng 1.300 khách hàng (cá nhân, doanh nghiệp).
Các TCTD trên địa bàn triển khai thực hiện Đề án, phương án tái cơ cấu giai đoạn 2021-2025; trong đó đối với các Quỹ Tín dụng nhân dân (QTDND) thuộc trách nhiệm quản lý của Chi nhánh đã xây dựng và triển khai thực hiện phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025.
Tính đến ngày 30/6/2023, trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh tất cả 18 QTDND đều đã hoàn thiện phương án cơ cấu lại và được HĐQT phê duyệt triển khai. Hiện nay, cơ cấu tổ chức, bộ máy quản trị, điều hành, Ban kiểm soát của các QTDND trên địa bàn cơ bản đã được kiện toàn, đảm bảo theo quy định tại Điều 81, 83 Luật các TCTD.
Định hướng nhiệm vụ của ngành Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh trong 6 tháng cuối năm 2023: Ngành Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh triển khai đầy đủ các cơ chế, chính sách của ngành, theo dõi sát diễn biến thị trường tiền tệ trên địa bàn, kịp thời nắm bắt, xử lý tình huống phát sinh. Tăng cường công tác truyền thông chính sách đến các Hiệp hội DN, các hội ngành nghề, các sở ban ngành; Đẩy mạnh tổ chức thực hiện chương trình kết nối ngân hàng – doanh nghiệp trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh theo Kế hoạch đã ban hành. Tăng cường công tác đối thoại doanh nghiệp, nắm bắt và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp và người dân; Tăng cường nâng cao hiệu quả nguồn lực hoạt động thanh tra, giám sát, theo dõi sát sao tình hình thanh khoản, tuân thủ các quy định về hoạt động ngân hàng của các TCTD trên địa bàn. Tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành chính chuyển đổi số; đặc biệt, TP. Hồ Chí Minh đã được Quốc hội thông qua Nghị quyết số 98/2023/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển. Theo đó, ngành Ngân hàng Thành phố sẽ nỗ lực, triển khai kịp thời, hiệu quả các nhiệm vụ được Thành phố giao.
Ông Phạm Đức Ấn - Chủ tịch HĐTV Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank)
Liên quan đến vấn đề xây dựng và triển khai Phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025, thực hiện Quyết định số 689/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Agribank đã xây dựng và trình Ngân hàng Nhà nước phê duyệt Phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025; trong đó tập trung vào một số mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm.
Đó là, cơ cấu lại toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động, tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; nâng cao chất lượng tín dụng, ngăn ngừa, hạn chế nợ xấu mới phát sinh, tích cực thu hồi nợ xấu, nợ đã xử lý rủi ro; cơ cấu lại hệ thống mạng lưới hiện có, đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt động và tuân thủ quy định của pháp luật; tăng vốn điều lệ đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn theo chuẩn mực Basel II; hiện đại hóa ngân hàng, phát triển mô hình ngân hàng số và thanh toán không dùng tiền mặt; đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, phát triển sản phẩm dịch vụ hiện đại, ứng dụng công nghệ số nhằm tăng tỷ trọng thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng.
Trên cơ sở phương án đã xây dựng, Agribank đã chủ động thực hiện các giải pháp cơ cấu lại, đến ngày 30/6/2023, Agribank cơ bản đạt và vượt tiến độ mục tiêu đã đề ra, trong đó nổi bật là: Tổng tài sản đạt hơn 1,9 triệu tỷ đồng; Nguồn vốn huy động đạt 1,75 triệu tỷ đồng; Dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 1,45 triệu tỷ đồng; Lợi nhuận tiếp tục đạt theo kế hoạch đề ra, đồng thời vẫn tiếp tục dành hàng ngàn tỷ đồng để giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ khách hàng vay vượt qua khó khăn; tiếp tục là doanh nghiệp đi đầu trong công tác an sinh xã hội.
Mặc dù đã có những kết quả khả quan nhưng ông Ấn cho biết, còn đúng một nửa thời gian để thực hiện Phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu cho giai đoạn 2021-2025, nhưng trong bối cảnh hiện nay, Agribank xác định sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Một là, về nâng cao chất lượng tín dụng, kiểm soát nợ xấu. Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô trong nước và quốc tế gặp rất nhiều khó khăn, bất lợi như hiện nay, các doanh nghiệp hoạt động cầm chừng, quy mô sản xuất bị thu hẹp, tồn kho tăng cao, cạn kiệt nguồn thu, khó khăn trong trả nợ ngân hàng, dẫn đến nợ xấu gia tăng mặc dầu Ngân hàng Nhà nước đã có cơ chế cơ cấu nợ giữ nguyên nhóm nợ.
Hai là, sự phát triển công nghệ, số hóa trong lĩnh vực ngân hàng diễn ra với tốc độ rất nhanh, xóa nhòa ranh giới về mặt không gian, các công ty Fintech vừa là đối tác, vừa là đối thủ cạnh tranh đầy tiềm năng, cũng như các NHTMCP sẵn sàng đầu tư nhân lực chất lượng cao, phát triển công nghệ một cách mau lẹ để chiếm ưu thế so với NHTM nhà nước, đặc biệt là ngân hàng 100% vốn nhà nước như Agribank, với trình tự, thủ tục đầu tư các dự án về công nghệ mất rất nhiều thủ tục và thời gian.
Ba là, về đảm bảo vốn tự có để đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn theo chuẩn mực Basel II vẫn là thách thức lớn, mặc dầu theo đề nghị của Chính phủ, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết chấp thuận chủ trương đầu tư bổ sung vốn điều lệ tối đa là 17.100 tỷ đồng cho Agribank giai đoạn 2021-2023. Tuy nhiên, với số vốn tăng thêm này cũng chỉ đủ cho tăng trưởng tín dụng của Agribank đến năm 2024. Dự kiến năm 2025, để tăng trưởng 10% dư nợ tín dụng, Agribank cần được Nhà nước cấp bổ sung vốn điều lệ 10.000 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, trong thời gian chống chọi với COVID-19, chính sách thắt chặt tiền tệ để kiểm soát lạm phát của nhiều nền kinh tế lớn, chính sách cấm vận, cạnh tranh chiến lược kéo dài, đã ảnh hưởng rất tiêu cực đến hoạt động của doanh nghiệp, sức cầu cả trong nước và quốc tế giảm thấp, hàng tồn kho tăng cao, quan hệ kinh tế, thương mại suy giảm nghiêm trọng.
Vì vậy, mặc dù Agribank đưa rất nhiều giải pháp nhưng tăng trưởng tín dụng vẫn thấp, dù lãi suất cho vay của Agribank đã giảm từ 2-4% tuỳ theo đối tượng khách hàng và Agribank tổ chức nhiều đoàn công tác làm việc trực tiếp các Chi nhánh trong toàn hệ thống để đánh giá nguyên nhân, tìm ra giải pháp tăng trưởng tín dụng.
Việc tăng trưởng tín dụng thấp trong 6 tháng đầu năm thấp vừa do tính chất mùa vụ trong hoạt động nông nghiệp nhưng bên cạnh đó còn do những nguyên nhân cơ bản như: Khách hàng không đáp ứng các điều kiện cho vay như khách hàng vay để đảo nợ tránh nợ xấu tại ngân hàng khác, để cơ cấu lại tài chính, thanh toán trái phiếu đã phát hành nhưng không đáp ứng điều kiện cho vay hoặc khách hàng trong tình trạng hoạt động cầm chừng, không có nhu cầu vay vốn vì không có thị trường tiêu thụ, thậm chí khi có nguồn sẵn sàng trả để giảm dư nợ để chờ thời cơ phục hồi kinh doanh.
Trong điều kiện hiện nay, chính sách tài khóa sẽ đóng vai trò rất quan trọng, đặc biệt phải khơi thông được giải ngân đầu tư công, qua đó sẽ góp phần tăng nguồn lực cho nền kinh tế, nâng sức cầu trong nước.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần tạo cơ chế tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước, các NHTM nhà nước, qua đó ưu tiên quản lý mục tiêu thay cho quản lý hành vi, để NHTM nhà nước chủ động, linh hoạt, có nhiều giải pháp sáng tạo trong đầu tư vào công nghệ, phối hợp với các công ty Fintech để tạo các sản phẩm dịch vụ mới một cách nhanh nhất đáp ứng yêu cầu cạnh tranh.
Tôi mong muốn Chính phủ trình Quốc hội thông qua chủ trương từ năm 2024 cho phép áp dụng cơ chế tăng vốn điều lệ hàng năm cho Agribank từ phần lợi nhuận nộp ngân sách nhà nước của Agribank.
Ông Nguyễn Thanh Tùng – Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank)
Tính đến hết tháng 6/2023, huy động vốn, tín dụng của Vietcombank tăng trưởng lần lượt 6,6%, 2,6%; đạt quy mô tương ứng 1,3 và 1,2 triệu tỷ đồng; Chất lượng tín dụng được kiểm soát, tỷ lệ nợ xấu ở mức 0,85%, tỷ lệ dự phòng bao nợ xấu ở mức trên 350%.
Trong bối cảnh nhiều khó khăn và thách thức, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo triển khai các giải pháp tổng thể, toàn diện để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân. Theo đó, bên cạnh việc ban hành Thông tư 02/2023/TT-NHNN ngày 23/4/2023 quy định về việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn, NHNN đã 4 lần cắt giảm các mức lãi suất điều hành, đưa mặt bằng lãi suất thị trường quay trở về mức trước đại dịch; ổn định tỷ giá, đảm bảo thanh khoản cho hệ thống ngân hàng;
NHNN cũng đã quyết liệt chỉ đạo các NHTM tiết giảm chi phí để hạ lãi suất cho vay, cắt giảm tối đa các loại phí.
Thực hiện các chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, Vietcombank đã chủ động chỉ đạo triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để đồng hành, hỗ trợ cho doanh nghiệp và người dân. Cụ thể: Đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng theo phương châm an toàn, hiệu quả. Ngay từ đầu năm đã phân giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các chi nhánh ở mức khoảng 13% và đây là một KPI trọng yếu bên cạnh KPI về kiểm soát chất lượng tín dụng. Triển khai nhiều giải pháp để tiết kiệm chi phí hoạt động, quản trị thanh khoản hiệu quả phù hợp với diễn biến của thị trường, tạo dư địa để hạ mặt bằng lãi suất cho vay và duy trì lãi suất cho vay ở mức thấp nhất thị trường.
Trong 6 tháng đầu năm, Vietcombank đã tiên phong thực hiện 10 đợt giảm lãi suất huy động, 5 đợt giảm lãi suất cho vay cho tất cả các phân khúc khách hàng cá nhân và doanh nghiệp.
Chủ động triển khai nhiều chương trình cho vay với lãi suất ưu đãi cho các phân khúc, đối tượng ưu tiên: Chương trình cho vay ngắn hạn ưu đãi; Chương trình cho vay khách hàng FDI; Chương trình cho vay lãi suất cố định 1-5 năm; Chương trình cho vay sản xuất kinh doanh ưu đãi cho khách hàng doanh nghiệp nhỏ, hộ kinh doanh…
Thực hiện nhiều đợt giảm lãi suất cho vay đối với dư nợ hiện hữu của khách hàng. Lũy kế đến hết ngày 30/6/2023, Vietcombank đã giảm gần 1.300 tỷ đồng tiền lãi cho hơn 242.000 lượt khách hàng với dư nợ lên tới hơn 1 triệu tỷ đồng, chiếm gần 87% tổng dư nợ của Vietcombank.
Vietcombank cũng tiên phong thực hiện chính sách miễn toàn bộ phí quản lý và phí chuyển tiền trên kênh ngân hàng số Digibank, giúp hàng chục triệu khách hàng các nhân tiết kiệm hàng nghìn tỷ đồng phí giao dịch mỗi năm, qua đó góp phần tích cực thực hiện Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt của Chính phủ.
Tích cực thực hiện Chương trình chuyển đổi số với nhiều sản phẩm dịch vụ ngân hàng đột phá, đẩy mạnh dịch chuyển khách hàng lên kênh số, giúp khách hàng thuận tiện trong giao dịch, tiết kiệm chi phí.
Vietcombank đang nghiên cứu số hóa toàn bộ quy trình cho vay khách hàng cá nhân nhỏ lẻ để rút giảm đáng kể thời gian xét duyệt và thẩm định cho vay, tạo điều kiện cho khách hàng có thể tiếp cận nhanh chóng, thuận lợi nhất với nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
Thời gian tới, Vietcombank sẽ tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chỉ đạo của Chính phủ và NHNN về việc đơn giản hoá và số hoá quy trình cho vay, tiếp tục tiết giảm chi phí để hạ lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ hiệu quả cho các doanh nghiệp và người dân vượt qua khó khăn, phục hồi sản xuất và đầu tư.
Ông Phan Đức Tú – Chủ tịch HĐQT Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)
BIDV luôn thấu hiểu những trăn trở của lãnh đạo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, của lãnh đạo NHNN làm thế nào để khơi thông dòng vốn, để các doanh nghiệp có vốn để kinh doanh. Chúng tôi cũng hiểu và nhận thức được, việc thực hiện chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, của NHNN không chỉ là chấp hành các chỉ đạo của cấp trên mà còn là cơ hội để triển khai các kế hoạch phát triển kinh doanh, cơ hội tìm kiếm, tiếp cận khách hàng, gia tăng giao dịch với khách hàng khi khách hàng đã vượt qua các khó khăn để phục hồi và phát triển kinh doanh.
BIDV đã đưa ra nhiều các giải pháp trong 6 tháng đầu năm như:
Thứ nhất, BIDV đã rà soát thủ tục cấp tín dụng, đơn giản hoá và áp dụng công nghệ vào quy trình cấp tín dụng, tích cực nghiên cứu phát triển các sản phẩm ứng dụng kỹ thuật số hoá, đặc biệt xây dựng cơ chế cấp tín dụng theo phương thức phương tiện điện tử…
Thứ hai, nghiên cứu xây dựng cơ chế chương trình riêng cho từng đối tượng khách hàng, triển khai kết nối ngân hàng – doanh nghiệp.
Thứ ba, thu hút các nguồn vốn quốc tế cho tín dụng xanh, tiếp tục tiết giảm chi phí, hạ lãi suất cho vay (cả cho vay mới và vay cũ).
Thứ tư, phối hợp với Hiệp hội DNNVV triển khai các chương trình kết nối kết hợp tư vấn, tập huấn, đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ…
Dưới đây là một số kết quả BIDV đã đạt được trong 6 tháng đầu năm:
Đưa ra 25 gói tín dụng ưu đãi với tổng quy mô 484 nghìn tỷ đồng, mức giảm lãi suất cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp từ 0,5 - 2%/năm, đối với khách hàng cá nhân từ 1 - 1,5%/năm. Từ ngày 11/5/2023, BIDV tiếp tục giảm lãi suất cho vay đối với khách hàng để hỗ trợ phục hồi, phát triển kinh tế với mức giảm từ 0,3 - 0,8%/năm.
Triển khai chương trình hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước theo Nghị định 31 của Chính phủ và Thông tư 03 của NHNN: Đến ngày 30/6/2023, BIDV đang thực hiện hỗ trợ lãi suất đối với hàng trăm khách hàng, doanh số cho vay lũy kế là gần 16 nghìn tỷ đồng và dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất trên 5 nghìn tỷ đồng.
Triển khai thực hiện cơ cấu lại thời hạn nợ, giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư số 02/2023/TT-NHNN: Đến thời điểm ngày 30/6/2023 dư nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ khoảng hơn 20 nghìn tỷ đồng.
Triển khai chương trình cho vay nhà ở xã hội theo Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 11/3/2023 và văn bản 2308/NHNN-TD của NHNN với quy mô số tiền giải ngân 30.000 tỷ đồng. BIDV là ngân hàng đầu tiên công bố việc phê duyệt cấp tín dụng đối với 1 dự án nhà ở xã hội tại tỉnh Phú Thọ.
Tích cực, kịp thời triển khai các chương trình ưu đãi lãi suất theo chỉ đạo giảm mặt bằng lãi suất cho vay của Chính phủ, NHNN.
Về các giải pháp tín dụng trong 6 tháng cuối năm 2023, BIDV sẽ tập trung bám sát chỉ đạo của Chính phủ, NHNN, đưa ra các giải pháp như: Tiếp tục ưu tiên tập trung vốn tín dụng phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên, khuyến khích phát triển theo chủ trương của Chính phủ, chỉ đạo của NHNN; tiếp tục rà soát các quy trình, nghiệp vụ, gia tăng hạn mức công nghệ, tiếp tục hạ lãi suất cho vay, tiếp tục tiết giảm các chi phí, để giảm thiểu lãi suất cho vay; tiếp tục thực hiện các chương trình hỗ trợ lãi suất…
Với các khó khăn, vướng mắc các ngân hàng và doanh nghiệp đang gặp, BIDV đề xuất/kiến nghị một số giải pháp:
Một là, đề xuất Chính phủ, các bộ, ngành chỉ đạo có hiệu quả chương trình phục hồi phát triển kinh tế, tháo gỡ khó khăn, phát triển thị trường vốn.
Hai là, tăng khả năng phục hồi cho nền kinh tế cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp cả cung và cầu, thực hiện chính sách tài khoá mạnh mẽ, mở rộng, giảm áp lực cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho DN triển khai các kế hoạch kinh doanh.
Ba là, tăng vốn điều lệ cho các NHTM nhà nước.
Bốn là, tăng cường tạo niềm tin thị trường, theo đó tăng cường phổ biến các kiến thức về hoạt động kinh doanh, về tài chính – ngân hàng, để tạo ra sự hiểu biết chung, chia sẻ cơ hội, lợi ích, trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia các thị trường, các hoạt động đầu tư, mua bán chứng khoán, bảo hiểm…
Ông Phạm Như Ánh - Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Quân Đội (MB)
Về phía MB, chúng tôi xác định, ngành bất động sản (BĐS) vẫn có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, ảnh hưởng rất lớn đến các ngành, nghề khác, do đó MB vẫn dành room tín dụng để tài trợ cho lĩnh vực này (khoảng gần 20%).
Về chính sách, MB xây dựng định hướng tiếp cận tín dụng cụ thể đối với từng loại hình BĐS, trong đó BĐS nhà ở tập trung phân khúc trung bình, phục vụ nhu cầu để ở của người dân. Đẩy mạnh tiếp cận đối với BĐS khu công nghiêp, khu chế xuất, tạo tiền đề để phát triển các ngành công nghiệp, sản xuất chế biến với hàm lượng công nghệ cao.
Nhờ có chính sách điều hành linh hoạt của NHNN, giao hạn mức tăng trưởng tín dụng sớm đã tạo điều kiện thúc đẩy tiếp cận tín dụng, trong 6 tháng đầu năm 2023, MB không gặp tình trạng thiếu room tín dụng đối với khách hàng.
Kết quả tình hình cấp tín dụng BĐS 6 tháng đầu năm 2023 tại MB: Tổng dư nợ lĩnh vực BĐS đạt xấp xỉ 147.000 tỷ đồng, tăng trưởng 4,2% so với năm 2022, trong đó:
80% dư nợ BĐS là cho vay khách hàng cá nhân mua nhà gần 115.400 tỷ đồng, cho khoảng 38.000 khách hàng, chiếm 21,5% tổng dư nợ MB.
20% tài trợ khách hàng doanh nghiệp gần 31.600 tỷ đồng, với 165 khách hàng, chiếm gần 6% tổng dư nợ.
Mặc dù đã có chỉ đạo sát sao của Chính phủ về tháo gỡ các vướng mắc về pháp lý cho thị trường bất động sản, nhưng tiến độ giải quyết còn chậm, đặc biệt về việc định giá đất, phê duyệt quy hoạch còn gặp các vướng mắc về thẩm quyền, trình tự, phương pháp tính tại các địa phương.
Đối với khách hàng doanh nghiệp là chủ đầu tư gặp khó khăn, không hoàn thiện được dự án theo tiến độ dự kiến do vướng mắc pháp lý, khó khăn về nguồn vốn triển khai, áp lực nợ và trái phiếu đến hạn lớn, sụt giảm doanh thu, người mua nhà gây áp lực trả lại sản phẩm.
Đối với khách hàng cá nhân mua nhà, ngoài việc suy giảm nguồn thu để trả nợ, các vướng mắc pháp lý của dự án cũng gây mất niềm tin cho người mua nhà, trì hoãn việc trả nợ, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng.
6 tháng cuối năm 2023 và năm 2024, thị trường BĐS dự kiến vẫn còn nhiều khó khăn và tiềm ẩn rủi ro lớn, các dự án vẫn đang trong quá trình hoàn thiện pháp lý chủ đầu tư chưa hoàn thiện xây dựng, bàn giao sản phẩm theo đúng kế hoạch. Niềm tin của người mua nhà suy giảm, ảnh hưởng trực tiếp tới nhu cầu vay vốn, tuân thủ cam kết thanh toán theo hợp đồng mua bán với chủ đầu tư và cam kết trả nợ vay với ngân hàng.
Đề nghị Quốc hội và Chính phủ luật hoá các quy định về xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm để tạo hành lang pháp lý cho các TCTD triển khai thu hồi nợ an toàn, hiệu quả; xem xét cơ chế cho phép "chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án khi đã có giấy chứng nhận hoặc có quyết định giao đất, cho thuê đất" tạo điều kiện để ngân hàng xử lý nợ xấu đối với các dự án đang triển khai dở dang và giúp tăng nguồn cung nhà ở.
Tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương đẩy nhanh tiến độ tháo gỡ vướng mắc về pháp lý dự án cho chủ đầu tư.
Kiến nghị Bộ Xây dựng, UBND các tỉnh tiếp tục phối hợp đẩy nhanh tiến độ xử lý các vướng mắc về pháp lý, thủ tục cho các dự án. Đặc biệt các DN có nhiều dự án dang dở, ưu tiên các dự án có tỷ lệ hoàn thiện xây dựng cao để hoàn thiện sản phẩm bàn giao nhà cho người dân.
NHNN tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng, thực hiện các biện pháp theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, góp phần thúc đẩy thị trường BĐS phát triển lành mạnh, bền vững; Phân nhóm BĐS để có chính sách quản lý và phát triển phù hợp, ưu tiên nhà ở thu nhập thấp, BĐS khu công nghiệp... xem xét có chính sách ưu tiên; BĐS cao cấp, BĐS nghỉ dưỡng... mang tính chất đầu tư cần quy hoạch, quản lý riêng để phát triển ổn định và bền vững.
Ông Từ Tiến Phát – Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Á châu (ACB)
Trong 6 tháng đầu năm 2023, ACB tiếp tục đa dạng kênh huy động, nỗ lực giảm lãi suất huy động bình quân; tiết kiệm các chi phí hoạt động. Kết quả là đã tiết kiệm được hơn 500 tỷ đồng trong 6 tháng đầu năm so với kế hoạch ban đầu; chỉ số chi phí trên doanh thu giảm từ 40% xuống mức gần 30%.
Trong 6 tháng đầu năm, NHNN đã 4 lần hạ các mức lãi suất điều hành và hệ thống ngân hàng liên tục giảm lãi suất huy động. ACB cũng đã 10 lần giảm lãi suất huy động.
Bên cạnh đó, ACB đã thực hiện nhiều giải pháp để khuyến khích tăng trưởng tín dụng, giảm lãi suất cho người vay, bao gồm:
Chương trình cho vay ưu đãi 30 nghìn tỷ đồng, giảm tối đa 3% so với biểu lãi suất. Chương trình áp dụng rộng rãi đối với tất cả khách hàng, không giới hạn đối tượng, lĩnh vực. Đến nay đã giải ngân 2/3 ngân sách chương trình, khoảng 20 nghìn tỷ đồng áp dụng khoảng 60 nghìn khách hàng.
Giảm từ 0,5- 2% lãi suất cho khách hàng hiện hữu có khoản vay đến kỳ thay đổi lãi suất. Tổng hợp các chương trình trên, tháng đầu năm là 488 tỷ đồng, dự kiến 9 tháng đầu năm 2023 là 900 tỷ đồng và cả năm 2023 là 1.000 tỷ đồng. Ngân hàng cũng thực hiện nhiều chương trình kết nối doanh nghiệp.
Đối với gói hỗ trợ lãi suất 2 % cho khách hàng: Sau hơn 1 năm triển khai, tính đến thời điểm ngày 30/6/2023, tại ACB đã đạt kết quả khả quan với tổng doanh số giải ngân là 1.529 tỷ đồng, tổng dư nợ các khoản hỗ trợ lãi suất là 647 tỷ đồng,
- Đối với cơ cấu nợ giữ nguyên nhóm nợ: Sau 2 tháng kể từ ngày Thông tư 02 có hiệu lực (tính đến thời điểm ngày 30/06/2023), có 117 khách hàng với tổng dư nợ 1.201 tỷ đồng được thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư 02, tương ứng với 894 tỷ đồng tài khoản vay.
ACB ý thức rất rõ, để kinh doanh bền vững phải hài hòa được lợi ích xã hội, giữa người gửi tiền, người vay và ngân hàng nên giảm được lãi suất cho vay là nhiệm vụ tối quan trọng trong thời điểm này. Chỉ có giảm được lãi suất cho vay mới đảm bảo được tăng trưởng tín dụng, giảm nguy cơ nợ xấu phát sinh, duy trì mối quan hệ lâu dài với khách hàng vay và đặc biệt góp phần hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, thúc đẩy khu vực kinh tế trong nước phát triển.
Ông Nguyễn Đức Vinh - Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank)
Có những vướng mắc bản thân ngành Ngân hàng không thể tự giải quyết được và rất cần sự chung tay của nhiều bộ, ngành.
Thời gian qua, có thể thấy nỗ lực của Chính phủ và sự vào cuộc quyết liệt của các ngành, các cấp nhằm thúc đẩy, tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế. Tôi mong rằng, các chính sách thúc đẩy sẽ tạo ra những thay đổi dần trong quý III và quý IV. Đây là điều kiện quan trọng nhất trong điều hành vĩ mô cho phép chúng ta hướng đến sự tăng trưởng.
Trong 6 tháng đầu năm, thông qua các hội nghị có thể thấy sự nỗ lực điều hành của NHNN là rất lớn từ chính sách tiền tệ cho đến chính sách hỗ trợ, thúc đẩy theo chủ trương của Chính phủ. Có thể nói những gì NHNN làm được trong thời gian này là quá nhiều, trong đó duy trì chính sách tiền tệ ổn định, tỷ giá ổn định, đặc biệt là giảm được lãi suất điều hành thời gian qua. Đây là một nỗ lực, cố gắng rất lớn để hỗ trợ thị trường, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp giảm khó khăn.
Các Thông tư 02, Thông tư 03, Nghị định liên quan đến trái phiếu, gần đây nhất là các quy định về việc nới lỏng hạn mức tín dụng cho các ngân hàng lên tới 14-15%… đã gỡ khó cho quá trình hoạt động của doanh nghiệp, ngân hàng. Điều này giúp chúng ta hi vọng sẽ có những chuyển biến tích cực của nền kinh tế trong thời gian tới.
Bản thân ngân hàng chúng tôi rất hưởng ứng các chỉ đạo của NHNN, nếu so sánh với đỉnh cao của thanh khoản vào cuối năm ngoài và đầu năm nay lãi suất huy động lên tới 10% thì đến nay đã giảm, ngân hàng cũng chấp nhận giảm lợi nhuận của mình… qua việc giảm lãi suất đã giảm lợi nhuận hơn 2.000 tỷ đồng, bản thân VPBank đã giảm hơn 1.000 tỷ đồng, mức giảm từ 2-3%.
Các điều kiện để tăng thêm mức tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp, nền kinh tế nói chung, VPBank cùng các ngân hàng khác cũng đang tiếp tục triển khai. Nếu như trước đây chỉ tập trung các chủ trương hỗ trợ nền kinh tế, doanh nghiệp trong khi doanh nghiệp lại không có đầu ra thì đến nay đã có chủ trương kích cầu, kích thích tiêu dùng. Rất may trong 6 tháng đầu năm chúng ta đã phục hồi trong đầu tư công, điều này sẽ tạo ra những cơ hội cho tăng trưởng, đưa được nguồn vốn lớn cũng ứng ra nền kinh tế nhưng chừng đó là không đủ. Bởi vậy, tiêu dùng và tiêu dùng nội địa sẽ là yếu tố quan trọng nhất.
Bên cạnh thuận lợi, có những vướng mắc bản thân ngành Ngân hàng không thể tự giải quyết được và rất cần sự chung tay của nhiều bộ, ngành.
Thứ nhất khi kinh tế khó khăn, sức khỏe doanh nghiệp giảm sút dẫn đến không đáp ứng được các yêu cầu cấp tín dụng. Vậy chúng ta có hỗ trợ không? Thực tế hỗ trợ DN khỏe, người ta cũng cần nhưng không cần lắm. Trong khi toàn nền kinh tế có đến 70-80% không đáp ứng được yêu cầu, mấy trăm nghìn công nhân thất nghiệp có hỗ trợ không… Bài toán này cần đặt vấn đề ngược lại với các cơ quan nhà nước về chính sách.
Hãy để các ngân hàng được cân đối những rủi ro trong phạm vi cho phép, khi khách hàng đang gặp khó khăn, không thể đáp ứng đầy đủ 100% điều kiện thì ngân hàng có thể chấp nhận nếu nhìn thấy tiềm năng trong tương lai.
Để giảm lãi suất, Thủ tướng, Thống đốc, hiệp hội ban hành rất nhiều các văn bản kêu gọi, vận động, áp dụng các biện pháp hành chính cũng đã giảm được rất nhiều nhưng gốc rễ của lãi suất không nằm ở thủ tục hành chính mà nằm ở thị trường. Đó là vấn đề thanh khoản, nếu chúng ta không giữ môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, một chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ cùng các chính sách khác ổn định… thì sẽ rất khó.
Đối với hỗ trợ tài chính tiêu dùng, nhu cầu của người dân là có nên cần chính sách để triển khai hết các hình thái cho vay tiêu dùng để giải quyết việc suy giảm tiêu dùng của người dân trong thời gian qua.
Cần có chính sách bảo vệ quyền và lợi ích của ngân hàng, củng cố hoạt động lành mạnh của ngân hàng. Hiện ngân hàng cho vay cũng đang chịu nhiều rủi ro nhất, do đó cơ quan quản lý cũng cần có những quy định về quyền đòi nợ, quyền xử lý nợ, ngân hàng có quyền đòi nợ, người đi vay phải có trách nhiệm trả nợ.
Ông Hàn Ngọc Vũ - Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB)
Tại VIB, chuyển đổi số là trọng tâm chiến lược trong việc trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu cả về quy mô lẫn chất lượng. VIB xác định 3 trụ cột chính của chuyển đổi số là: Phát triển ngân hàng số, thực hiện số hoá mọi hoạt động trong ngân hàng và tổ chức khai thác cơ sở dữ liệu.
VIB đã triển khai thành công (chủ yếu từ nguồn lực nội bộ) sản phẩm chiến lược Ngân hàng số My VIB 2.0 với 3 trong tâm: ưu tiên ứng dụng trên điện thoại thông minh, chú trọng nền tảng điện toán đám mây và tối đa hoá trí tuệ nhân tạo.
Ứng dụng My VIB 2.0 đã đạt được những dấu mốc đáng kể tại Việt Nam, bao gồm: Ứng dụng ngân hàng di động đầu tiên tại Việt Nam được xây dựng từ đầu và hoàn toàn trên nền tảng điện toán đám mây; là ứng dụng ngân hàng di động đầu tiên tại Việt Nam cung cấp trải nghiệp thực tế tăng cường; tối ưu trải nghiệm khách hàng trên nền tảng thiết bị di động.
Tính đến hết tháng 6/2023, đã có 60% trên tổng số 4,5 triệu khách hàng cá nhân của VIB sử dụng dịch vụ trên ứng dụng di động My VIB. Cũng trong 6 tháng đầu năm 2023, tổng số lượng giao dịch khách hàng thực hiện trên kênh số tại VIB đạt gần 160 triệu, chiếm hơn 90% tổng giao dịch toàn ngân hàng. Số dư cuối kỳ của tài khoản thanh toán trực tuyến sau 6 tháng đầu năm 2023 đã tăng 149%, trong khi số dư tiền gửi trực tuyến tăng 329% so với cuối năm 2022. Số lượng thẻ tín dụng mở hoàn toàn qua kênh trực tuyến trong 6 tháng đầu năm 2023 đã bằng 200% của đã năm 2022.
Trong năm 2023, chúng tôi sẽ tiếp tục hoàn thiện ứng dụng thông minh để tích hợp giải pháp xác thực khách hàng bằng thẻ căn cước công dân gắn chip, xác thực khách hàng thông qua kết nối với dữ liệu dân cư quốc gia.
VIB cũng đang triển khai dự án ứng dụng ngân hàng điện tử VIB Checkout cho khách hàng là doanh nghiệp siêu nhỏ và cá nhân kinh doanh. Đây là tệp khách hàng đông đảo và quan trọng, là mắt xích kết nối giữ cá nhân và doanh nghiệp, giữa tiêu dùng và kinh doanh, chiếm tỷ trọng đáng kể giữ tỷ trọng đáng kể tạo ra công ăn việc làm và thu thập của dân cư. Do đó, VIB ưu tiên hoàn thành sớm dự án này để đối tượng khách hàng doanh nghiệp siêu nhỏ và hộ kinh doanh có thể sớm tiếp cận ngân hàng số, hệ sinh thái thanh toán số dễ dàng và hoàn toàn miễn phí.
Về việc thực hiện đề án 06: Sau khi Quyết định 06/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử được ban hành, chúng tôi nhận thấy NHNN đã có những chỉ đạo, điều phối, hỗ trợ tích cực đối với các tổ chức tín dụng thông qua thành lập tổ công tác, ban hành kế hoạch triển khai, hướng dẫn kết nối với Bộ Công an.
Kết quả triển khai Đề án 06 ở ngành Ngân hàng có thể dễ dàng nhận thấy: hoàn thành hệ thống dịch vụ công, đảm bảo an toàn cho việc kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, từng bước triển khai cơ sở dữ liệu thông tin tin tín dụng của khách hàng; hoàn thành thử nghiệm cung cấp một số gải pháp xác thực điện tử khách hàng qua căn cước công dân có gắn chip.
Về phía VIB, chúng tôi xác định, Đề án 06 không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền lợi của các TCTD nếu muốn đi xa và đi nhanh trong công cuộc chuyển đổi số. Từ cuối quý II/2022, chúng tôi đã bắt đầu thực hiện chúng tôi đã bắt đầu thực hiện làm sạch dữ liệu khách hàng bằng cách đối chiếu với dữ liệu quốc gia về dân cư và đang tiếp tục đối chiếu dữ liệu khách hàng với dữ liệu căn cước công dân. Về triển khai ứng dụng thẻ căn cước công dân gắn chip, VIB đã thực hiện rà soát, nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin, đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật của Bộ Công an. Hoàn tất lựa chọn nhà cung cấp ứng dụng đọc thẻ căn cước công dân gắn chip, đáp ứng điều kiện an toàn, bảo mật và đã tiến hành triển khai kỹ thuật trong tháng 7 này.
Về việc triển khai ứng dụng tài khoản định danh và xác thực điện tử VneID, VIB được được lựa cọn là 1 trong 5 TCTD tham gia thử nghiệm, kết nối với CSDL quốc gia về dân cư, đã và đang tham gia đánh giá phương án kỹ thuật để thực hiện thí điểm.
VIB cũng tích cực phối hợp với C06 Bộ Công an để xây dựng, hoàn thiện giải pháp chấm điểm tín dụng, sử dụng dữ liệu, tập khách hàng thí điểm làm căn cứ cho Bộ Công an thực hiện các bước tiếp theo. VIB sẽ tiếp tục trao đổi, làm rõ, điều chỉnh mô hình sau khi nhận được kết quả chấm điểm ban đầu từ Bộ Công an.
Tại VIB, các vấn đề về an ninh mạng luôn được đặt lên hàng đầu, triển khai đồng bộ các giải pháp. VIB đã hoàn tất việc xây dựng chiến lược an toàn thông tin tổng thể, kế hoạch đảm bảo an ninh công nghệ cho 3 năm trước mắt. Tăng cường hệ thống theo dõi, giám sát, cảnh báo liên tục, đảm bảo sự an toàn và liên tục. Triển khai áp dụng các giải pháp liên quan đến sinh trắc học nhằm kiểm tra, đối chiếu xác thực khách hàng trong quá trình sử dụng tài khoản thanh toán, ngăn ngừa các hành vi gian lận, lừa đảo.