Vấn đề - Nhận định

Tín dụng hợp tác xã tìm giải pháp khác biệt để phát triển

ThS. Trần Trọng Triết 14/10/2025 - 16:10

Hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) trên địa bàn Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang phát huy tính hợp tác, chủ động chia sẻ lợi ích và trách nhiệm trong cộng đồng thành viên. Cùng với đó, nâng cao năng lực quản trị, đào tạo đội ngũ kế cận, tiết giảm chi phí để hạ lãi suất cho vay, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong quản lý tài chính, kế toán và dịch vụ khách hàng.

Định vị vai trò trong chiến lược phát triển dài hạn

Sau khi tinh gọn bộ máy chính quyền 2 cấp, hiện nay ĐBSCL có 3 Ngân hàng Nhà nước Khu vực gồm: Ngân hàng Nhà nước Khu vực 13 bao gồm địa bàn tỉnh Đồng Tháp và tỉnh Tây Ninh; Ngân hàng Nhà nước Khu vực 14 bao gồm địa bàn TP. Cần Thơ và tỉnh Vĩnh Long; Ngân hàng Nhà nước Khu vực 15 bao gồm địa bàn tỉnh An Giang và tỉnh Cà Mau. Đến cuối tháng 9/2025, mạng lưới QTDND khu vực ĐBSCL có 170 quỹ đang hoạt động.

Thông tin từ Ngân hàng Nhà nước Khu vực 13, Khu vực 14 và Khu vực 15 cho thấy, đến cuối tháng 9/2025 các QTDND trên địa bàn ĐBSCL có nguồn vốn huy động đạt 15.637 tỷ đồng, trong đó: Khu vực 13 huy động vốn đạt 7.097 tỷ đồng, chiếm 45,39% tổng nguồn vốn huy động vùng; Khu vực 14 huy động vốn đạt 3.799 tỷ đồng (chiếm 24,29%) và Khu vực 15 huy động vốn đạt 4.741 tỷ đồng (chiếm 32,59%).

Có được nguồn vốn huy động tại chỗ, cùng với vốn vay Ngân hàng Hợp tác xã chi nhánh trên địa bàn, hoạt động cho vay được đẩy mạnh đạt tổng dư nợ tín dụng 13.112 tỷ đồng, chiếm 83,85% nguồn vốn huy động, trong đó 99% là cho vay thành viên, phản ánh rõ đặc trưng hợp tác và tính cộng đồng của mô hình QTDND. Các khoản cho vay tập trung chủ yếu vào lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản chiếm 86%, tiếp đến là công nghiệp, xây dựng và thương mại, dịch vụ. Điều này cho thấy các QTDND đang phát huy vai trò là kênh dẫn vốn quan trọng cho khu vực nông thôn, giúp người dân duy trì sản xuất, phát triển kinh tế hộ và tạo sinh kế bền vững.

Điểm đáng chú ý, nguồn vốn huy động của các QTDND trên địa bàn ĐBSCL từ dân cư tiếp tục tăng trưởng tích cực, giảm dần sự phụ thuộc vào nguồn vay từ Ngân hàng Hợp tác xã. Đây là tín hiệu tích cực, thể hiện niềm tin của người dân đối với hệ thống QTDND ngày càng được củng cố.

Thời gian qua, cơ cấu tổ chức của các QTDND đã được kiện toàn theo hướng tách bạch giữa quản lý và điều hành, tăng cường kiểm soát rủi ro, giảm thiểu xung đột lợi ích. Các quy định nội bộ được ban hành khá đầy đủ hơn, đáp ứng yêu cầu pháp lý và nâng cao tính minh bạch trong hoạt động.

z7113799791802_67bae470f9cc6a6a8075a647c22d064d.jpg
Ảnh minh họa

Ông Võ Thanh Nhàn, Giám đốc QTDND Phú Hòa (An Giang) chia sẻ, đơn vị luôn duy trì chính sách lãi suất hài hòa, vừa đảm bảo lợi ích của người gửi tiền, vừa hỗ trợ các thành viên vay vốn. Việc tuân thủ nghiêm túc các giới hạn cho vay và tỷ lệ an toàn vốn đã giúp đơn vị hoạt động ổn định, an toàn và vượt chỉ tiêu kế hoạch hàng năm.

QTDND Phú Hòa tập trung nguồn lực cho vay lĩnh vực sản xuất nông nghiệp chủ lực: trồng lúa, nuôi cá, cải tạo vườn cây, chăn nuôi, kinh doanh nhỏ... Các gói vay ưu đãi được thiết kế phù hợp với chương trình chuyển đổi cây trồng và phát triển nông nghiệp công nghệ cao, đồng thời áp dụng lãi suất linh hoạt dựa trên lịch sử tín nhiệm của thành viên.

Bên cạnh đó, nhiều QTDND đã và đang quan tâm đầu tư, nâng cấp trụ sở, trang thiết bị, hệ thống giám sát an ninh, lưu trữ dữ liệu, đảm bảo an toàn kho quỹ theo quy định của NHNN. Hệ thống công nghệ thông tin cũng được chú trọng với phần mềm nghiệp vụ Core Banking, đường truyền tốc độ cao, máy chủ và thiết bị sao lưu dữ liệu. Đáng chú ý, một số quỹ còn mạnh dạn ứng dụng các công cụ số hiện đại như ChatGPT Pro, Google Drive, Make.com... để tự động hóa và nâng cao hiệu suất công việc.

Số hóa sản phẩm dịch vụ

Dù đạt được nhiều kết quả tích cực, hệ thống QTDND trên địa bàn ĐBSCL vẫn đối mặt với không ít khó khăn. Quy mô tài chính còn nhỏ, năng lực quản trị và nhân sự hạn chế khiến việc triển khai các tiêu chuẩn công nghệ thông tin, bảo mật và kiểm soát rủi ro còn nhiều bất cập.

Đa số thành viên QTDND là nông dân, tiểu thương ở khu vực nông thôn, nên mức độ hiểu biết về dịch vụ tài chính - ngân hàng còn hạn chế. Việc tham gia giám sát hoạt động của QTDND chưa thực sự hiệu quả. Ngoài ra, sản phẩm dịch vụ của QTDND đơn điệu, chủ yếu là huy động và cho vay, chưa có nhiều dịch vụ tài chính gia tăng, dẫn đến sức cạnh tranh thấp so với các ngân hàng thương mại.

Một số QTDND còn gặp khó trong xử lý nợ xấu, do khách hàng chây ỳ, rời địa phương hoặc tài sản bảo đảm khó thanh lý. Công tác thi hành án chậm, trong khi công tác truyền thông, tiếp cận khách hàng trẻ qua kênh số còn yếu, khiến lượng thành viên mới tăng chậm, nguy cơ già hóa thành viên ngày càng rõ nét…

Về phía Ngân hàng Hợp tác xã, nhiệm vụ trọng tâm là tiếp tục đóng vai trò đầu mối trong việc kiểm tra, kiểm toán, hỗ trợ thanh khoản, điều hòa vốn, cũng như đào tạo nhân sự, giúp QTDND phát triển sản phẩm tài chính hiện đại, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thành viên.

Hỗ trợ cho các QTDND, cơ quan chức năng ở các địa phương cũng cần đẩy mạnh tuyên truyền về bản chất hợp tác, tương trợ của mô hình tín dụng nhân dân, nhằm thu hút thêm thành viên, củng cố niềm tin cộng đồng. Đồng thời, phối hợp xây dựng cơ chế trao đổi thông tin, hỗ trợ công tác thu hồi nợ, xử lý tài sản đảm bảo, đảm bảo an ninh trật tự tại các QTDND... Hướng dẫn các QTDND chuyển đổi số, miễn nhiều loại phí như: phí duy trì bảo dưỡng hệ thống, phí thường niên, phí quản lý tài khoản, phí cung cấp sao kê, phí thấu chi, phí giao dịch trên ứng dụng Mobile Banking; Miễn phí toàn bộ cho giao dịch thanh toán chuyển tiền của QTDND; hỗ trợ quảng cáo, tiếp thị, tư vấn, đào tạo, hỗ trợ về kỹ thuật cho các Quỹ tham gia hệ thống chuyển tiền điện tử.

Ông Huỳnh Văn Hòa, Giám đốc Co.opBank Chi nhánh Kiên Giang cho biết đã đề nghị các QTDND triển khai các dịch vụ ngân hàng số trong hoạt động của quỹ để góp phần nâng cao hiệu quả quản lý điều hành kinh doanh theo hướng hiện đại, từng bước đưa các sản phẩm dịch vụ mới, tiện ích đến với thành viên, nhất là khách hàng ở nông thôn, vùng sâu vùng xa.

Về phần mình, các QTDND cần chủ động xây dựng chiến lược phát triển dài hạn, tái định vị vai trò, mở rộng cộng đồng thành viên, phát huy tính hợp tác, chia sẻ lợi ích và trách nhiệm trong cộng đồng. Cùng với đó, nâng cao năng lực quản trị, đào tạo đội ngũ kế cận, tiết giảm chi phí để hạ lãi suất cho vay, tăng khả năng cạnh tranh, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong quản lý tài chính, kế toán và dịch vụ khách hàng.

Với nỗ lực của các QTDND, Ngân hàng Hợp tác xã các chi nhánh trên địa bàn cũng đã thực hiện tốt vai trò “ngân hàng của QTDND”, đảm bảo cung cấp vốn kịp thời, hỗ trợ lãi suất, giám sát và tư vấn nghiệp vụ, giúp các quỹ hoạt động an toàn và hiệu quả hơn. Công tác đào tạo, chuyển đổi số cũng được đẩy mạnh, tạo điều kiện để hệ thống QTDND từng bước hiện đại hóa.

Sự phối hợp chặt chẽ giữa Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Khu vực, Ngân hàng Hợp tác xã, chính quyền địa phương và hệ thống QTDND trên địa bàn được kỳ vọng sẽ tạo thành nền tảng vững chắc giúp mô hình tín dụng hợp tác xã phát triển an toàn, hiệu quả và bền vững hơn. Qua đó, tiếp tục khẳng định vai trò của QTDND như một “bệ đỡ” tài chính cho hàng vạn hộ dân, góp phần xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBDCL trong giai đoạn mới.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Tín dụng hợp tác xã tìm giải pháp khác biệt để phát triển
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO