(thitruongtaichinhtiente.vn) - Trong mọi tình huống, lạm phát, lãi suất và tỷ giá cần được duy trì ổn định để chuẩn bị cho giai đoạn phục hồi sau bệnh dịch. Đồng thời, Việt Nam nên từng bước xây dựng đệm tài khóa để phòng, chống những cú sốc kiểu COVID–19, hoặc những diễn biến bất ngờ của chính bệnh dịch này trong những năm tới.
Các diễn giả tại buổi tọa đàm |
Khuyến nghị trên được Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) thuộc Trường Đại học kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội đưa ra tại buổi Tọa đàm công bố báo cáo "Kinh tế vĩ mô quý II và 6 tháng đầu năm 2020" được tổ chức sáng ngày 21/7/2020. Tại buổi công bố, các chuyên gia của VEPR đánh giá, trong nửa đầu năm, chính sách tiền tệ đã có những đóng góp quan trọng trong việc giữ ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Thanh khoản ngân hàng dồi dào trong nửa đầu năm 2020
|
Báo cáo "Kinh tế vĩ mô quý II và 6 tháng đầu năm 2020" được Kinh tế trưởng VEPR Phạm Thế Anh công bố tại buổi tọa đàm cho biết, trong quý II/2020, lãi suất liên ngân hàng qua đêm và một tuần giảm mạnh, kết thúc quý lần lượt ở mức 0,15%/năm và 0,43%/năm, giảm lần lượt 95% và 85% so với quý đầu năm.
Ngay sau khi NHNM ban hành một loạt quyết định như: Quyết định số 918/QĐ-NHNN; số 919/QĐ-NHNN; số 920/QĐ-NHNN về giảm lãi suất điều hành, trần lãi suất huy động và lãi suất cho vay vào ngày 12/5/2020, lãi suất liên ngân hàng qua đêm và 1 tuần lập tức giảm sâu xuống dưới mức 1%. Các NHTM cũng đồng loạt giảm lãi suất cho vay nhờ vào thanh khoản dồi dào và lãi suất huy động giảm.
VEPR đánh giá, hành động cắt giảm lãi suất điều hành vào tháng 5/2020 của NHNN phù hợp với xu hướng chung của thế giới, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận dòng vốn tốt hơn khi dịch COVID-19 đang phủ "bóng ma" lên toàn cầu. Cùng với đó, NHNN cũng cam kết sẵn sàng tăng hạn mức tín dụng cho các TCTD từ nay đến cuối năm để hỗ trợ tăng trưởng. Điều này có tác động tích cực đến tâm lý thị trường.
Tính đến ngày 19/6, tăng trưởng cung tiền M2 ở mức 4,59%, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2019 (6,05%). Tăng trưởng huy động vốn của các tổ chức tín dụng là 4,35%, cao gấp đôi tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế (2,45%). "NHNN tiếp tục duy trì nới lỏng tiền tệ cùng mức chênh lệch lớn giữa lãi suất huy động và cho vay khiến thanh khoản của các NHTM đang dư thừa", VEPR cho biết.
Tuy vậy, với tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp trên thế giới, cùng nguy cơ lạm phát và bong bóng tài sản trong nước, VEPR khuyến nghị: "NHNN cần rất thận trọng với tốc độ tăng trưởng cung tiền trong nước".
Nhìn về nửa cuối năm, các chuyên gia dự báo ngành Ngân hàng vẫn rất khó khăn. Theo ông Phạm Thế Anh, dù nhiều NHTM báo lãi nghìn tỷ đồng trong 6 tháng đầu năm 2020 nhưng con số đó chưa phản ánh hết các khó khăn NHTM gặp phải, có thể kể đến như: Vốn ngắn hạn đang ách tắc do thiếu đầu ra; áp lực nợ xấu tăng… "Ngành Ngân hàng năm nay vẫn rất khó khăn", ông Phạm Thế Anh nhấn mạnh.
Trong khi đó, chuyên gia tài chính ngân hàng Nguyễn Trí Hiếu cho rằng các quy định tại Thông tư 01 cho phép các NHTM được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ… đang đem lại lợi ích cho cả ngân hàng và khách hàng. Theo đó, ngân hàng sẽ không phải trích lập dự phòng rủi ro tín dụng cao hơn cho các khoản nợ đáng lý ra sẽ phải chuyển sang nhóm nợ cao hơn. Từ đó, ông Hiếu nhận định lợi nhuận trong nửa đầu năm 2020 của các ngân hàng công bố chưa hoàn toàn phản ánh chính xác thực trạng hoạt động ngân hàng.
Tỷ giá dự báo sẽ ổn định trong cả năm 2020
VEPR ghi nhận tỷ giá trung tâm gần như đi ngang suốt quý II/2020. Trong khi đó, tại NHTM, tỷ giá lại sụt giảm khá mạnh từ cuối quý I/2020, kết thúc quý II/2020 tại 23.300 VND/USD, giảm thêm 1,5% so với đầu quý.
Tại buổi tọa đàm, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV Cấn Văn Lực đưa ra nhận định, tỷ giá khá ổn định cả về tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực trong 6 tháng đầu năm 2020. So với đồng tiền của 12 quốc giá là đối tác thương mại lớn của Việt Nam, tỷ giá thực của đồng VND giảm nhẹ ở mức 0,3%. Từ phân tích này, ông Lực cho rằng, từ nay đến cuối năm 2020 không nhất thiết phải phá giá đồng VND.
Về phía VEPR, ông Phạm Thế Anh cho biết, VEPR dự báo trong quý tới, tỷ giá trung tâm có thể tiếp tục ở mức thấp do lo sợ về tác động của dịch bệnh đến kinh tế thế giới và kiểm soát dịch bệnh ở Mỹ đang theo chiều hướng xấu đi.
Bên cạnh đó, việc mở cửa lại xuất khẩu nông sản, đặc biệt là gạo sau khi bị gián đoạn do COVID-19 cũng khiến nguồn cung các đồng ngoại tệ khác dồi dào hơn, khiến VND có khả năng tăng về giá trị tương đối, tỷ giá có thể giữ ở mức thấp.
“Trong bối cảnh các quốc gia trên thế giới giảm mạnh lãi suất, cùng với lãi suất đồng VND được các NHTM vẫn huy động ở mức cao… sẽ là các yếu tố giữ tỷ giá ổn định trong năm 2020”, ông Phạm Thế Anh nhấn mạnh.
Hai kịch bản tăng trưởng kinh tế
|
Đánh giá về kinh tế Việt Nam nửa đầu năm, VEPR cho rằng, trước ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch COVID-19 lên kinh tế toàn cầu, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia trên thế giới có mức tăng trưởng kinh tế dương trong quý 2/2020, đạt 0,36%. Tính chung 6 tháng đầu năm, GDP tăng 1,81%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6/2020 tăng 3,17% so với năm 2019 và tăng 0,66% so với tháng 5/2020. Đây là mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2016-2020. Nguyên nhân của tình trạng này la do 2 đợt điều chỉnh giá xăng dầu vào cuối tháng 5&6/2020 làm giá nhóm hàng giao thông tăng 6,05%. Lạm phát bình quân 6 tháng đầu năm 2020 là 4,19%, vượt qua mục tiêu kiềm chế lạm phát ở mức dưới 4%.
VEPR cho rằng, trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước bất ổn như hiện nay, việc cấp bách lúc này là kiểm soát giá lương thực thực phẩm. “Mục tiêu lạm phát bình quân năm 2020 dưới 4% của NHNN có thể đạt được nếu thực hiện tốt điều này”, VEPR nhận định.
|
Đánh giá về triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm 2020, VEPR cho rằng, tình hình phụ thuộc vào khả năng khống chế bệnh dịch không chỉ trong nước mà còn trên thế giới. Theo đó, những yếu tố có thể hỗ trợ cho tăng trưởng trong phần còn lại của năm bao gồm: kỳ vọng về triển vọng kinh tế do việc hoàn tất ký kết Hiệp định thương mại tự do và bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và EU (EVFTA và IPA) đem lại; tiến độ giải ngân và thi công các dự án đầu tư công trọng điểm được đẩy nhanh như mong đợi; chi phí nguyên nhiên vật liệu duy trì ở mức thấp do suy giảm nhu cầu tiêu thụ và sản xuất; làn sóng dịch chuyển đầu tư nhằm phân tán rủi ro từ thương chiến Mỹ - Trung…
Tuy vậy, Việt Nam cũng đang gặp nhiều rủi ro và thách thức trong một môi trường kinh tế thế giới bất ổn và tương lai bất trắc. Sự tái bùng phát của COVID-19 tại nhiều nước đi kèm với các biện pháp phong tỏa kéo dài thời gian đứt gãy của chuỗi cung ứng; xung đột địa chính trị giữa các nước lớn có thể khiến một nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam đối diện những rủi ro bất ngờ.
Bên cạnh đó, điểm yếu của kinh tế Việt Nam còn đến từ các rủi ro nội tại như mất cân đối tài khóa lớn, tốc độ và mức độ đầu tư phát triển, đặc biệt là hạ tầng bị chững lại; sức khỏe hệ thống ngân hàng – tài chính tuy dần được củng cố nhưng còn dễ tổn thương; sự phụ thuộc nặng nề của tăng trưởng vào khu vực FDI và thiếu tự chủ công nghệ và nguyên liệu; chất lượng lao động thấp; hiệu quả đầu tư công thấp…
Cân nhắc những yếu tố tích cực cũng như tiêu cực đang tác động đối với kinh tế Việt Nam hiện nay, VEPR đưa ra các dự báo về tăng trưởng và lạm phát theo các kịch bản khác nhau về tình hình phòng chống bệnh dịch. “Với việc gỡ bỏ phong tỏa xã hội sớm hơn dự kiến, chúng tôi có cơ sở nâng mức dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam lên so với các dự báo trước. Theo đó, khả năng cao nền kinh tế sẽ đạt mức tăng trưởng 3,8% trong cho cả năm 2020. Ở một khả năng thấp hơn, nền kinh tế có thể chỉ tăng trưởng 2,2% do những diễn biến bất lợi của bệnh dịch”, báo cáo của VEPR nhấn mạnh.
Trên cơ sở các kịch bản kinh tế được đưa ra VEPR khuyến nghị: “Ưu tiên hàng đầu lúc này là đảm bảo an sinh xã hội, giữ ổn định môi trường kinh tế vĩ mô và hỗ trợ các doanh nghiệp còn hoạt động”.
Bên cạnh đó, việc chủ động cắt giảm các chi phí bắt buộc như phí và hoãn/giảm thuế đối với doanh nghiệp có giá trị kích thích và hỗ trợ kinh tế hiệu quả hơn so với cứu trợ hoặc tài trợ trực tiếp. Về gói hỗ trợ tài khóa của Bộ Tài chính cũng như gói hỗ trợ tín dụng của các NHTM, đối tượng của các chính sách này nên là những ngành sản xuất, những doanh nghiệp còn có thể hoạt động và hoạt động tốt, vì đây là các đối tượng có thể tạo ra dòng tiền.
“Chính sách tiền tệ trong thời điểm hiện nay được đánh giá là sẽ ít hiệu quả”, VEPR nhận định. Bởi khi dịch bệnh còn tồn tại thì một số nhu cầu đặc thù sẽ biến mất, theo đó các ngành kinh doanh phục vụ các nhu cầu đó cũng sẽ không trở lại được, dù lãi suất có giảm cũng không tạo được động lực để doanh nghiệp vay vốn đầu tư sản xuất, kinh doanh. Nói cách khác, yếu tố lãi suất không hẳn quyết định hành vi đầu tư hoặc mở rộng kinh doanh vào lúc này. “Dư địa chính sách tiền tệ có thể còn, tuy nhiên việc tính toán dùng vào thời điểm nào và mức độ ra sao cần phải cân nhắc kỹ, vì chính sách tiền tệ còn đối mặt với ràng buộc về lạm phát và giá trị đồng nội tệ (tỷ giá)”, VEPR nhấn mạnh.
|
Song hành với những chính sách mang tính ngắn hạn hiện tại trong việc giảm thiểu tác động tiêu cực của COVID-19, VEPR khuyến nghị, Chính phủ không nên bỏ lỡ cuộc khủng khoảng, biến nguy thành cơ bằng cách tranh thủ sự đồng thuận của người dân và các ngành - địa phương thúc đẩy các chính sách có tầm nhìn dài hạn nhằm cải thiện nền tảng vĩ mô, môi trường kinh doanh, cơ sở cho niềm tin xã hội để chuẩn bị cho những bất trắc lớn hơn trong tương lai.
VEPR nhấn mạnh: “Trong mọi tình huống, lạm phát, lãi suất và tỷ giá cần được duy trì ổn định để chuẩn bị cho giai đoạn phục hồi sau bệnh dịch. Đồng thời, Việt Nam nên từng bước xây dựng đệm tài khóa để phòng chống những cú sốc kiểu COVID–19, hoặc những diễn biến bất ngờ của chính bệnh dịch này, trong những năm tới”.