Trong dự án Luật sửa đổi Luật Quản lý thuế, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về nguyên tắc khai thuế, tính thuế; sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đến khai thác, chia sẻ dữ liệu giữa cơ quan thuế với các cơ quan liên quan, phục vụ công tác quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử (TMĐT).
Sàn TMĐT kê khai, nộp thuế thay cho người bán là phù hợp đặc thù kinh doanh
Nêu lý do sửa đổi, bổ sung quy định về nguyên tắc khai thuế, tính thuế, Bộ Tài chính cho biết, khái niệm về “cơ sở thường trú” hiện nay chỉ có tại quy định của pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) và trong việc áp dụng hiệp định tránh đánh thuế 2 lần giữa Việt Nam và các quốc gia, vùng lãnh thổ.
Quy định hiện hành tại khoản 4 Điều 42 Luật Quản lý thuế dẫn đến một số nhà cung cấp nước ngoài cho rằng, trường hợp họ có hình thành cơ sở thường trú tại Việt Nam thì họ không thuộc đối tượng phải đăng ký thuế, kê khai nộp thuế theo quy định tại khoản 4 Điều 42 Luật Quản lý thuế.
Trong trường hợp này, họ chỉ thuộc đối tượng nộp thuế TNDN trên phần lợi nhuận phân bổ cho cơ sở thường trú theo quy định của pháp luật thuế TNDN và Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần (ví dụ như trường hợp của Booking.com).
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật về thuế giá trị gia tăng (GTGT) và pháp luật về thuế TNDN, thì các nhà cung cấp nước ngoài khi thực hiện hoạt động kinh doanh TMĐT, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác tại Việt Nam thì nhà cung cấp nước ngoài thuộc đối tượng nộp thuế TNDN và thuế GTGT.
Bên cạnh đó, chưa có giải pháp quản lý hiệu quả đối với các mô hình kinh doanh qua sàn giao dịch TMĐT. Theo quy định hiện hành, hộ, cá nhân kinh doanh thông qua sàn TMĐT có trách nhiệm tự kê khai, tự nộp thuế, tự chịu trách nhiệm. Cơ quan thuế quản lý thuế đối với các hộ, cá nhân kinh doanh trên sàn thông qua cơ chế yêu cầu sàn TMĐT cung cấp thông tin và thu thập thông tin từ bên thứ 3 để rà soát đưa vào diện quản lý, yêu cầu kê khai phù hợp thực tế, điều chỉnh doanh thu hoặc xử lý truy thu.
Pháp luật hiện hành đã quy định một số trường hợp khai thay, nộp thay cho các hộ, cá nhân kinh doanh TMĐT bao gồm: Tổ chức hợp tác kinh doanh với cá nhân, tổ chức trong nước là đối tác của nhà cung cấp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam thực hiện chi trả thu nhập từ sản phẩm, dịch vụ nội dung thông tin số cho cá nhân theo thỏa thuận với nhà cung cấp nước ngoài; Sàn giao dịch TMĐT thực hiện việc khai thuế thay, nộp thuế thay cho cá nhân trên cơ sở ủy quyền theo quy định của pháp luật dân sự (chỉ thực hiện khi có ủy quyền dân sự của hộ, cá nhân kinh doanh).
Bộ Tài chính cho rằng, cần có giải pháp quản lý hiệu quả hơn đối với mô hình kinh doanh qua sàn TMĐT. Ngoài ra, theo kinh nghiệm quốc tế về triển khai cơ chế sàn TMĐT kê khai, nộp thuế thay cho người bán: đây là nội dung được khuyến nghị triển khai trong các tài liệu, nghiên cứu của OECD, các tổ chức quốc tế khác (IMF, ADB,…), cũng như đã chứng minh thực tế hiệu quả triển khai của các nước tiên tiến trên thế giới và trong khu vực (Anh, EU, Australia, Thái Lan, Đài Loan,…).
Theo đó, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi, bổ sung tại khoản 4 Điều 42 về nguyên tắc khai thuế, tính thuế nhằm mở rộng cơ sở thu, đảm bảo công bằng, bình đẳng trong hoạt động kinh doanh TMĐT, kinh doanh dựa trên nền tảng số.
Các nội dung gồm: Thứ nhất, sửa đổi bỏ cụm từ “không có cơ sở thường trú tại Việt Nam” đối với nhà cung cấp ở nước ngoài khi thực hiện hoạt động kinh doanh TMĐT, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác tại Việt Nam để không phân biệt có hay không có cơ sở thường trú tại Việt Nam đều phải kê khai, nộp thuế qua Cổng Thông tin điện tử của Tổng cục Thuế.
Thứ hai, bổ sung quy định trường hợp tổ chức là nhà quản lý sàn giao dịch TMĐT có chức năng thanh toán, có trách nhiệm khấu trừ, kê khai, nộp thuế thay cho hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có phát sinh hoạt động kinh doanh TMĐT thông qua sàn giao dịch TMĐT để cải cách thủ tục hành chính, tập trung đầu mối kê khai, đáp ứng việc kê khai, nộp thuế phù hợp với đặc thù của hoạt động kinh doanh TMĐT.
Phối hợp xây dựng cơ sở dữ liệu, cung cấp thông tin phục vụ quản lý thuế
Cùng với đó, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đến khai thác, chia sẻ dữ liệu giữa cơ quan thuế với các cơ quan liên quan.
Cụ thể, Bộ Tài chính cho biết, qua thực tiễn, việc định danh, xác thực cá nhân, tổ chức là vấn đề quan trọng để phòng ngừa các hành vi gian lận, trốn thuế trong hoạt động TMĐT.
Tuy nhiên, việc kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin của các bộ, ngành, địa phương về hộ tịch, thuế, ngân hàng, viễn thông..., còn chậm và chưa đồng bộ.
Việc chia sẻ dữ liệu giữa các bộ, ngành trong thời gian qua chủ yếu theo phương thức thủ công, chưa được thực hiện theo hình thức điện tử để đảm bảo chính xác, thường xuyên, liên tục, đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý.
Theo đó, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi, bổ sung khoản 11 Điều 15 Luật Quản lý thuế quy định về khai thác, chia sẻ dữ liệu giữa cơ quan thuế với các cơ quan liên quan theo hướng quy định Bộ Công thương, Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giao thông Vận tải và các bộ, ngành liên quan có trách nhiệm phối hợp xây dựng cơ sở dữ liệu, cung cấp thông tin, kết nối để chia sẻ dữ liệu liên quan đến các đối tượng kinh doanh trong lĩnh vực TMĐT, kinh doanh trên nền tảng số để phục vụ công tác quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT.