Bộ Tài chính đang đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật Dự trữ quốc gia thông qua 2 nhóm chính sách gồm bổ sung cơ chế cho phép Thủ tướng Chính phủ quyết định xuất hàng dự trữ quốc gia phục vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước và phân cấp thẩm quyền cho Thủ tướng chính phủ quyết định ngân sách trung ương mua bù hàng dự trữ quốc gia.
Theo đó, Dự thảo đề xuất Chính sách 1: Bổ sung cơ chế cho phép Thủ tướng Chính phủ quyết định xuất hàng dự trữ quốc gia phục vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Mục tiêu của chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi Luật Dự trữ quốc gia; Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện xuất hàng dự trữ quốc gia, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Theo đó, dự thảo sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền trong việc nhập, xuất hàng dự trữ quốc gia.
Cụ thể, bổ sung vào khoản 1 Điều 35 Luật Dự trữ quốc gia thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ quyết định nhập, xuất hàng dự trữ quốc gia trong tình huống "Phục vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước"
Bổ sung vào khoản 2 Điều 35 theo hướng Trường hợp xuất hàng dự trữ quốc gia phục vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước, Bộ Ngoại giao có văn bản đề nghị Bộ Tài chính thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Bộ Tài chính cho rằng, việc bổ sung tình huống nhập, xuất hàng dự trữ quốc gia để phục vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện xuất hàng dự trữ quốc gia.
Dự thảo cũng đề xuất Chính sách 2: Phân cấp thẩm quyền cho Thủ tướng chính phủ quyết định ngân sách trung ương mua bù hàng dự trữ quốc gia.
Nội dung chính sách gồm: Bỏ quy định Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định ngân sách trung ương mua bù hàng dự trữ quốc gia đã xuất cấp; Bỏ quy định Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định ngân sách trung ương mua bù hàng dự trữ quốc gia đã xuất cấp; bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn Thủ tướng chính phủ trong việc Quyết định ngân sách trung ương mua bù hàng dự trữ quốc gia đã xuất cấp.
Với nội dung trên, Bộ Tài chính đề xuất bỏ điểm b khoản 2 Điều 12; Bỏ điểm d khoản 1 Điều 13 Luật Dự trữ quốc gia; Bổ sung điểm d khoản 2 Điều 13 Luật Dự trữ quốc gia theo hướng bổ sung thẩm quyền Thủ tướng Chính phủ trong việc Quyết định ngân sách trung ương mua bù hàng dự trữ quốc gia đã xuất cấp.
Bộ Tài chính cho biết, lý do lựa chọn giải pháp này vì Điều 12 Luật Dự trữ quốc gia quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội. Theo đó, Quốc hội có nhiệm vụ, thẩm quyền quyết định mức phân bổ ngân sách trung ương cho dự trữ quốc gia hàng năm; Ủy ban thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ quyết định mức bổ sung từ ngân sách trung ương cho dự trữ quốc gia hàng năm và quyết định ngân sách trung ương mua bù hàng dự trữ quốc gia đã xuất cấp.
Thực tế từ năm 2013 đến năm 2023, Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ sung kinh phí từ nguồn dự phòng ngân sách trung ương hàng năm để mua bù hàng dự trữ quốc gia đã xuất cấp. Tuy nhiên, do quy trình trình cấp có thẩm quyền quyết định kinh phí mua mua bù hàng dự trữ quốc gia còn qua nhiều cấp, mất nhiều thời gian (từ khi Chính phủ có văn bản trình đến khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội có nghị quyết phê duyệt mất khoảng 2 tháng), trong khi đó các mặt hàng dự trữ quốc gia mua bù thường theo thời vụ (như mặt hàng lương thực, hạt giống cây trồng), hoặc phải đặt hàng, nhập khẩu từ nước ngoài (các mặt hàng an ninh, quốc phòng; một số mặt hàng vật tư nông nghiệp), việc bổ sung kinh phí chưa được kịp thời dẫn tới công tác triển khai thực hiện còn kéo dài (hoặc lỡ thời vụ), không kịp thực hiện trong năm kế hoạch phải chuyển dự toán sang năm sau thực hiện.
Điều 7 Luật Dự trữ Quốc gia quy định nguyên tắc "… Hàng dự trữ quốc gia sau khi xuất cấp phải được bù lại đủ kịp thời", như vậy việc bố trí ngân sách trung ương mua bù hàng dự trữ quốc gia là hoàn toàn phù hợp và là điều kiện cần thiết để thực hiện nguyên tắc đã được quốc hội quy định rõ tại Luật Dự trữ quốc gia nêu trên.
Bên cạnh đó, thực tế trong nhiều năm qua, ngân sách trung ương mua bù hàng dự trữ quốc gia được bố trí từ nguồn dự phòng ngân sách trung ương. Theo quy định tại Luật Ngân sách Nhà nước và Nghị định số 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số Điều của Luật Ngân sách nhà nước, việc quyết định sử dụng dự phòng ngân sách trung ương (đối với các khoản chi trên 3 tỷ) do Thủ tướng Chính phủ Quyết định và định kỳ báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội, Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Như vậy, việc quy định Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định ngân sách trung ương mua bù hàng dự trữ quốc gia là không cần thiết, không phù hợp với đặc thù của hoạt động dự trữ quốc gia. Để cải cách thủ tục hành chính, đảm bảo tính kịp thời cho hoạt động dự trữ quốc gia và thuận lợi trong thực hiện các quy trình, thủ tục theo quy định của pháp luật dự trữ quốc gia và pháp luật về ngân sách nhà nước, cần thiết phân cấp, thẩm quyền quyết định ngân sách trung ương mua bù hàng dự trữ quốc gia cho Thủ tướng Chính phủ.
Việc quy định thẩm quyền Thủ tướng Chính phủ quyết định kinh phí mua bổ sung, mua bù hàng dự trữ quốc gia sẽ làm giảm bớt phát sinh về thủ tục hành chính cho các cơ quan của Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong việc xem xét, trình phê duyệt bổ sung kinh phí mua bổ sung, mua bù hàng dự trữ quốc gia.