Sự sụt giảm mạnh từ phía tổng cầu của nền kinh tế Việt Nam đòi hỏi Chính phủ và các bộ, ban, ngành liên quan cần khẩn trương có những biện pháp thích hợp, kịp thời để phục hồi tổng cầu, phát triển kinh tế trong bối cảnh mới.
Tổng cầu sụt giảm mạnh
Từ đầu năm 2023 đến nay, kinh tế thế giới vẫn gặp nhiều bất ổn xuất phát từ lạm phát toàn cầu vẫn ở mức cao.
Các ngân hàng trung ương tiếp tục theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt, nhiều nền kinh tế lớn đã tăng trưởng chậm lại và các yếu tố chính trị như chiến sự Nga – Ukraine vẫn đang còn diễn biến khá phức tạp.
Trong tình hình đó, kinh tế Việt Nam cũng đối mặt với nhiều thách thức. GDP 6 tháng đầu năm 2023 chỉ tăng 3,72%, đây là mức tăng thấp so với GDP cùng kỳ trong giai đoạn 10 năm qua (chỉ cao hơn tốc độ tăng 1,74% cùng kỳ của năm 2020 – do ảnh hưởng mạnh của COVID-19 thời điểm đó).
Phát biểu tại Toạ đàm đối thoại chính sách: "Phục hồi tổng cầu thúc đẩy tăng trưởng trong điều kiện mới" ngày 11/7, PGS.TS Nguyễn Thành Hiếu, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho biết, vốn thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt khoảng 232,2 nghìn tỷ đồng, chỉ tương đương 33% so với kế hoạch năm. Vốn thực hiện từ khu vực ngoài Nhà nước 6 tháng đầu năm 2023 chỉ tăng 2% so với cùng kỳ, so với mức tăng trong năm 2022 là 9,5%.
Vốn FDI đăng ký vào Việt Nam 6 tháng đầu năm 2023 đạt 13,43 tỷ USD, giảm 4,3% so với cùng kỳ. Tổng vốn FDI thực hiện ước đạt 10,02 tỷ USD, tăng 0,5% so với cùng kỳ, so với mức tăng 7,9% trong năm 2022.
Liên quan đến thương mại quốc tế, tính chung 6 tháng đầu năm 2023, Việt Nam duy trì thặng dư thương mại 12,25 tỷ USD. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu đều giảm mạnh so với cùng kỳ, lần lượt giảm 12,1% và 18,2% do nhu cầu từ các thị trường chính của Việt Nam như Mỹ, ASEAN, EU và một số quốc gia Đông Á đều giảm.
Lượng xuất khẩu tới thị trường Mỹ giảm mạnh nhất với mức 22,6%, lượng nhập khẩu từ Hàn Quốc chứng kiến mức giảm 25,6% - lớn nhất trong các thị trường chính. Điều này cũng khiến cho sản lượng một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu của Việt Nam giảm mạnh so với cùng kỳ.
Cũng trong 6 tháng đầu năm, tín dụng nền kinh tế chỉ tăng 3,13%, trong khi cùng kỳ năm trước tăng 8,51%.
"Tăng trưởng tín dụng thấp cho thấy khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế còn rất yếu, mặc dù mức lãi suất đã có xu hướng giảm hơn so với năm 2022", PGS.TS Nguyễn Thành Hiếu nhìn nhận.
Mặt khác, gói hỗ trợ phục hồi kinh tế cho giai đoạn 2 năm 2022-2023, mặc dù đã qua một năm rưỡi, nhưng số tiền đã giải ngân còn rất thấp, chưa tạo được sự hỗ trợ kịp thời cho các khó khăn mà các doanh nghiệp gặp phải.
Theo PGS.TS Nguyễn Thành Hiếu, những số liệu trên cho thấy sự sụt giảm mạnh từ phía tổng cầu của nền kinh tế Việt Nam. Theo đó, mục tiêu tăng trưởng 6,5% trong năm 2023 trở nên rất khó khăn trong bối cảnh những tác động từ thế giới còn khó lường trong khi khu vực sản xuất trong nước còn chưa hoàn toàn hồi phục sau đại dịch.
Điều này đòi hỏi Chính phủ và các bộ, ban, ngành liên quan cần khẩn trương có những biện pháp thích hợp, kịp thời để phục hồi tổng cầu, phát triển kinh tế trong bối cảnh mới.
Trao đổi tại toạ đàm, TS. Nguyễn Đình Cung, Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương thẳng thắn nhìn nhận: "Với kinh nghiệm và trải nghiệm hơn 30 năm trong Chính phủ, đây có thể coi là thời điểm khó khăn nhất đối với nền kinh tế Việt Nam".
TS. Nguyễn Đình Cung cho rằng, đánh giá nói chung của các cơ quan nhà nước chưa sát với tình hình thực tiễn hiện nay. Nói đến tổng cầu chỉ duy nhất cầu Chính phủ có thể kiểm soát được là đầu tư công. Bài toán giải ngân đầu tư công chậm chạp đã tồn tại rất nhiều năm song chưa tìm được lời giải thoả đáng.
Trong khi đó, nhìn nhận dưới góc nhìn quốc tế, TS. Johnathan Picus, Chuyên gia Kinh tế trưởng Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) cho rằng, Việt Nam dựa quá nhiều vào chính sách tiền tệ để kích cầu. Việc nới lỏng chuẩn cho vay và hạ thấp lãi suất làm giảm chất lượng tài sản, có nguy cơ tạo ra bong bóng tài sản. Trong khi đó, các công cụ tài khoá chưa được sử dụng đúng mức làm chậm tăng trưởng cầu trong thời kỳ suy thoái và gây ra lạm phát trong thời kỳ tăng trưởng (chính sách tài khoá là thuận chu kỳ). Lấy ví dụ tại Thái Lan, TS. Johnathan Picus cho biết, chính sách tài khoá của nước này đáp ứng với đại dịch hiệu quả hơn so với Việt Nam.
Mặt khác, vị chuyên gia này đánh giá, đầu tư công tại Việt Nam còn phân mảnh, không gắn liền với chính sách công nghiệp và thương mại, chi cho cơ sở hạ tầng tương đối cao, nhưng lãng phí nhiều, trùng lặp, dự án nhỏ, không hiệu quả.
Tìm kiếm giải pháp từ dư địa chính sách
Chia sẻ tại tọa đàm, ông Trần Thành Long, Phó Vụ trưởng Vụ Tổng hợp Kinh tế Quốc dân, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chia sẻ trong bối cảnh khó khăn, thách thức nhiều hơn thời cơ và thuận lợi, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quyết liệt, tập trung chỉ đạo, ban hành nhiều cơ chế, chính sách trên tất cả các lĩnh vực, nỗ lực duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng, tháo gỡ các điểm nghẽn của nền kinh tế.
Theo đó, nhiều chính sách thiết thực, thể hiện tinh thần sẵn sàng đồng hành, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân đã được chỉ đạo triển khai, đẩy nhanh tiến độ thực hiện, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh sớm phục hồi và phát triển.
Về chính sách tiền tệ, lãi suất điều hành được giảm liên tục 4 lần nhằm giảm lãi suất cho vay, tăng khả năng tiếp cận và cung cấp vốn cho nền kinh tế. Cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn. Một số điều kiện về cho vay, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của các tổ chức tín dụng được nói lỏng, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho thị trường. Mặt khác, gói tín dụng 120 nghìn tỷ đồng với lãi suất ưu đãi cho nhà ở xã hội, nhà ở công nhân đang được triển khai tích cực.
Ông Trần Thành Long cho biết, trên cơ sở bối cảnh, tình hình hiện nay rất sự cần vào cuộc quyết liệt, tập trung đẩy mạnh thực hiện các mục tiêu trong những tháng cuối năm 2023. Do đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trình Chính phủ dự thảo Nghị quyết về các nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh.
Thứ nhất, tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng gắn với ổn định kinh tế vĩ mô. Tiếp tục triển khai các giải pháp, chính sách kích cầu tiêu dùng, phát triển mạnh thị trường trong nước, tăng cường kết nối cung-cầu hàng hóa và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm đẩy mạnh xuất khẩu đồng thời khai thác hiệu quả, thực chất hơn nữa các hiệp định tự do thương mại (FTA) đã ký kết.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, nới lỏng hơn, phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, hài hòa với chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm. Trong đó, tăng trưởng tín dụng xác định hạn mức tăng hợp lý và giảm mặt bằng lãi suất, nhất là lãi suất cho vay để hỗ trợ dòng tiền, đảm bảo khả năng tiếp cận tín dụng phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Gói tín dụng 120 nghìn tỷ đồng cho vay nhà ở xã hội tiếp tục rà soát với các điều kiện cho vay thuận lợi, thông thoáng, linh hoạt, khả thi...
Thứ ba, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy đầu tư của khu vực kinh tế ngoài nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) gắn với quá trình chuyển giao công nghệ tiên tiến. Công tác giải ngân vốn đầu tư công, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội và các Chương trình mục tiêu quốc gia cần đẩy mạnh hơn nữa. Mục tiêu thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững phải dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số…
Thứ tư, tiếp tục tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh.
Thứ năm, siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính và nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành. Đặc biệt là khắc phục tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm trong giải quyết công việc.
“Bên cạnh đó, các quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung cần sớm hoàn thiện. Từ đó có cơ chế, chính sách xử lý các trường hợp các bộ đùn đẩy, né tránh, sợ trách nhiệm,” ông Long nói.
Góp các giải pháp cụ thể giúp nền kinh tế phục hồi trong nửa cuối năm, PGS.TS Nguyễn Đức Trung, Hiệu trưởng Trường Đại học Ngân hàng TP.Hồ Chí Minh cho rằng, thứ nhất, phải đảm bảo ổn định hệ thống ngân hàng, vấn đề nợ xấu. Thứ hai, lãi suất phải phù hợp với rủi ro của doanh nghiệp vay vốn. Ngoại trừ những trường hợp những lĩnh vực ưu tiên như xuất khẩu hay với doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng công nghệ cao, còn lại là phải chấp nhận đó là thị trường. Một vấn đề quan trọng hơn là phải ổn định được tỷ giá. Thời điểm này ổn định tỷ giá là rất quan trọng để tránh nhập khẩu lạm phát và tạo ra một nền tảng vĩ mô ổn định.
PGS.TS Phạm Thế Anh, Trưởng khoa Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân đề xuất khuyến khích đầu tư tư nhân thông qua việc tiếp tục hạ lãi suất cho vay như giảm chi phí vốn; kích thích được tiêu dùng nhờ sự hồi phục trên thị trường tài sản. Bên cạnh đó, sử dụng tín dụng thuế đầu tư ngắn hạn; tránh nôn nóng hạ lãi suất chính sách dồn dập; ưu tiên sử dụng các biện pháp tài khoá.
Từ góc nhìn quốc tế, TS. Johnathan Picus đưa ra khuyến nghị: Cần xây dựng chính sách tài khoá nghịch chu kỳ, nhằm kích cầu trong giai đoạn tăng trưởng toàn cầu giảm; lật ngược suy giảm đầu tư công, tăng hiệu quả, tập trung, thông qua giám sát quốc gia, và kế hoạch phát triển vùng; hiện đại hoá hệ thống an sinh xã hội phù hợp với quốc gia thu nhập trung bình, công nghiệp hoá; minh bạch hoá chính sách tài khoá...