Chuyên gia cho rằng, ngành nông nghiệp của Việt Nam rất đa dạng nhưng khả năng cung cấp số lượng lớn chưa tốt, do đó, cần phải có sự liên kết chặt chẽ giữa các chuỗi cung ứng.
Phải cố xâm nhập thị trường ngách
Tham luận tại Diễn đàn “Phát triển chuỗi cung ứng sản xuất nông nghiệp an toàn” được tổ chức sáng nay (ngày 29/9), TS. Từ Minh Thiện, Tổng giám đốc Công ty CP Phát triển Dịch vụ Thái Bình Dương chia sẻ 5 nhu cầu của thị trường nông sản, cụ thể:
Thứ nhất, giá cả phải thực sự cạnh tranh. Nông sản hiện nay đang cạnh tranh rất mạnh, đặc biệt là cạnh tranh với giá của nhiều quốc gia khác như Trung Quốc, Thái Lan…
Thứ hai, phải có khả năng cung cấp thường xuyên, đúng thời hạn.
Thứ ba, có khả năng cung cấp số lượng lớn. Ngành nông nghiệp của Việt Nam rất đa dạng nhưng khả năng cung cấp số lượng lớn là chưa tốt. Do đó, cần phải có sự liên kết chặt chẽ.
Thứ tư, phải có chất lượng tốt, vị ngon phải đồng đều và bao bì phải đảm bảo.
Thứ năm, an toàn vệ sinh thực phẩm.
“Với xu hướng tiêu thụ thực phẩm trên thế giới hiện nay chúng ta phải cố gắng xâm nhập được vào các thị trường ngách. Đồng thời, giao thoa giữa 3 vấn đề sức khỏe, thuận tiện, thích thú. Đây là giá trị cốt lõi của sản phẩm, phải có sự khác biệt. Nông sản phải luôn luôn đảm bảo được giá trị cốt lõi”, TS. Từ Minh Thiện chia sẻ.
Về vấn đề liên kết chuỗi cung ứng, TS. Từ Minh Thiện cho rằng, tất cả các liên kết cuối cùng chỉ để phục vụ khách hàng. Theo ông, có 3 loại liên kết là liên kết chiều ngang, liên kết chiều dọc và liên kết hỗn hợp.
Với liên kết chiều ngang, ông cho rằng, liên kết này khá phức tạp, làm sao mọi người hợp tác theo tinh thần của hợp tác xã một cách tự nguyện và có lợi. Việt Nam có thể nghiên cứu các mô hình hợp tác xã của Nhật Bản - đây là mô hình hợp tác xã rất thành công nhưng tại Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn, rất ít hợp tác xã thành công.
Liên kết chiều dọc cần phải có một doanh nghiệp lớn để dẫn đầu, như "chim đầu đàn". Liên kết này theo mô hình "đàn chim bay" và đây là mô hình rất quan trọng. Tuy nhiên, mô hình liên kết này lại khá lỏng lẻo. Một sự thay đổi về giá trên thị trường có thể làm liên kết này thay đổi ngay. TS. Từ Minh Thiện cho rằng, vai trò của địa phương rất quan trọng nhưng vẫn chưa rõ trách nhiệm, quyền lợi của địa phương khiến địa phương khó tham gia.
Trong khi đó, liên kết hỗn hợp sẽ khắc phục được một số nhược điểm của 2 loại liên kết trên. Các phương pháp đánh giá chuỗi cung ứng, trong đó, khó nhất là khả năng kiểm soát được lợi ích của các cá nhân và tổ chức trong chuỗi.
Nhận xét thực trạng chuỗi cung ứng nông sản hiện nay, TS. Từ Minh Thiện cho rằng, hiện nay việc đầu tư cho sản xuất nông sản chưa có nhiều và chưa dám đầu tư mạnh vì sản xuất nông sản khá bấp bênh. Do đó, cần phải tính được tổng cầu của tất cả thị trường rồi mới ra được kế hoạch sản xuất.
Ông cũng cho rằng, Việt Nam có rất nhiều chính sách nhưng để tiếp cận chính sách không dễ, nhất là đối với người nông dân. Bên cạnh đó, chất lượng nguồn nhân lực, ứng dụng công nghệ cao vẫn còn hạn chế. “Liên kết giữa các vùng, trong sản xuất nông nghiệp không tính theo địa phương, mà phải tính theo vùng nguyên liệu”, TS. Từ Minh Thiện nói.
Từ đó, TS. Từ Minh Thiện kiến nghị, các giải pháp cần được triển khai đồng bộ, xuyên suốt và linh hoạt. Về lâu dài, cần thay đổi tư duy liên kết sản xuất kinh doanh của người sản xuất lẫn cấp quản lý.
Theo đó, trong giai đoạn đầu, vai trò nhà nước cũng như các Viện, Trường có ý nghĩa và tác động quan trọng trong việc hình thành và duy trì các thành viên trong liên kết theo chuỗi giá trị thông qua các chính sách ưu đãi vốn vay, hỗ trợ kỹ thuật và thị trường.
Sau đó, sẽ giảm dần các hỗ trợ về tài chính, chỉ còn các hỗ trợ về mặt kỹ thuật, về xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu. Để dần dần, các chuỗi sẽ được hình thành và vận hành theo hướng tự giác, dựa trên hiệu quả kinh tế và sự hợp tác tự nguyện giữa các thành viên.
Thị trường mới là yếu tố then chốt của chuỗi
Chia sẻ thực tiễn của các địa phương trong sản xuất nông sản, đặc biệt là trong việc phát triển chuỗi, ông Huỳnh Quang Đức, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tỉnh Bến Tre cho biết, để làm chuỗi cung ứng tốt phải có sự nhận diện về mục tiêu.
“Chúng tôi quan niệm mục tiêu là thị trường, có thị trường mới có doanh nghiệp, có thị trường hữu cơ tự khắc sẽ có doanh nghiệp hữu cơ. Thị trường mới là yếu tố then chốt của chuỗi”, ông Đức nói.
Ông Đức thích khái niệm thị trường tiêu chuẩn hơn là khái niệm thị trường khó tính. Chuỗi cung ứng là nền tảng đi vào tất cả thị trường. Tùy vào thị trường mà chuỗi cung ứng biến đổi theo phù hợp, không nên cứng nhắc về chuỗi cung ứng.
Người tiêu dùng cũng rất quan trọng, do đó, cần quan tâm tới con đường đi tới tận người tiêu dùng. Theo đó, phải xem xét lại thái độ, hướng tới tận người tiêu dùng. Trong đó, nên chú trọng người tiêu dùng nội địa, chứ không chỉ xuất khẩu. Bởi thị trường nội địa rất lớn, nếu không cẩn thận thì sẽ thành nơi tiêu thụ cho hàng nước ngoài.
Về vấn đề xung đột lợi ích giữa nông dân và doanh nghiệp, ông Đức cho rằng, nông dân có công cụ của mình để đối phó với doanh nghiệp và doanh nghiệp cũng có công cụ đối phó của mình. Mâu thuẫn lợi ích rất lớn nên việc xây dựng quan hệ đối tác doanh nghiệp với người dân bền vững là rất quan trọng.
Nhiều rủi ro nên rất ít doanh nghiệp đầu tư vào khâu chế biến, tiêu thụ
Trong khi đó ông Lê Văn Đông, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Trà Vinh đánh giá, chuỗi cung ứng sản xuất trong an toàn nông nghiệp là cầu nối lớn.
Theo ông Đông, nói an toàn là nói đến câu chuyện phải liên kết của các nhà, gồm Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, doanh nghiệp…. Việc liên kết, hình thức liên kết từ cung ứng vật tư, dịch vụ đầu vào cho đến tổ chức sản xuất, gắn với tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Để cụ thể hoá chính sách vào thực tế, Hội đồng nhân dân tỉnh Trà Vinh đã ban hành Nghị quyết 78/2018 về phê duyệt chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Bên cạnh đó, UBND tỉnh Trà Vinh cũng ban hành Quyết định số 2510 về việc phê duyệt các ngành hàng, sản phẩm quan trọng cần khuyến khích và ưu tiên hỗ trợ thực hiện liên kết sản xuất với tiêu thụ sản phẩm.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều khó khăn đối với các hộ nông dân, HTX, doanh nghiệp. Cụ thể, thị trường sản phẩm còn nhiều rủi ro nên rất ít doanh nghiệp đầu tư vào khâu chế biến, tiêu thụ trong lĩnh vực này.
Đặc biệt, trong những năm gần đây tác động của biến đổi khí hậu, dịch bệnh đã dẫn đến mất mùa, làm giảm chất lượng, năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi. Do đó, hợp tác xã, nông dân chưa đáp ứng được yêu cầu trong hợp đồng của doanh nghiệp đặt ra về chất lượng, tính đồng nhất, duy trì sản lượng ổn định phục vụ cho tiêu thụ, chế biến theo yêu cầu đối tác nhập khẩu.
Tại khoản 3 Điều 11 Nghị định 98 quy định về điều kiện để được hỗ trợ, như đối với sản phẩm nông nghiệp có chu kỳ nuôi, trồng, khai thác từ 1 năm trở lên; thời gian liên kết tối thiểu 5 năm… Ở điều kiện này, các doanh nghiệp cho rằng khó thực hiện do thị trường đầu ra của hầu hết các nông sản không ổn định, giá cả thay đổi theo mùa vụ.