Chủ Nhật, 10/8/2025
Đang hiển thị
Tỉnh thành khác
Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang soạn thảo Nghị định quy định về dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng, trong đó có cơ chế thu hút nhà đầu tư.
Dịch vụ carbon rừng - 1 trong 5 dịch vụ môi trường rừng
Phát biểu tại Tọa đàm Góp ý Dự thảo Nghị định quy định về dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng sáng ngày 15/7 do Hội Chủ rừng Việt Nam và Forest Trends phối hợp tổ chức, PGS,TS. Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, tên gọi Nghị định là “dịch vụ hấp thụ và lưu trữ carbon của rừng” thay vì “quản lý thị trường carbon rừng”, bởi mục tiêu Nghị định là thiết lập cơ sở pháp lý cho loại hình dịch vụ môi trường rừng thứ 5 (bên cạnh 4 loại dịch vụ đã được quy định tại Luật Lâm nghiệp là: thủy điện, nước sạch, nuôi trồng thủy sản và du lịch sinh thái).
“Tên gọi này phản ánh rõ bản chất là dịch vụ môi trường, không đơn thuần là giao dịch thị trường”, Cục trưởng Trần Quang Bảo nhấn mạnh.
Cũng theo Cục trưởng Trần Quang Bảo, hiện nay, ngoài quy định thí điểm tại khu vực Bắc Trung Bộ, vẫn chưa có khung pháp lý cho dịch vụ carbon rừng. Nguyên nhân một phần là do chưa rõ quyền sở hữu carbon rừng thuộc về ai, nhất là với rừng tự nhiên (thuộc sở hữu nhà nước) và rừng trồng (nhiều chủ thể quản lý).
“Quan điểm của chúng tôi là nguồn lợi từ carbon rừng nên ưu tiên trả lại cho chủ rừng trực tiếp được giao đất, giao rừng”, ông Trần Quang Bảo nói.
Ông Bảo cũng cho biết, Việt Nam đang phát triển đề án thị trường carbon, bao gồm cả sàn giao dịch và phân bổ hạn ngạch phát thải. Ngành lâm nghiệp là lĩnh vực duy nhất có phát thải âm, nghĩa là có thể tạo ra lượng tín chỉ carbon dương để giao dịch. Tuy nhiên, cũng như các ngành khác, ngành rừng cũng bị phân bổ hạn ngạch đóng góp vào NDC (Đóng góp do quốc gia tự quyết định), nên không phải toàn bộ lượng tín chỉ tạo ra đều được phép chuyển nhượng.
“Một trong những nội dụng quan trọng của Nghị định này là hướng tới thu hút đầu tư tư nhân, đặc biệt trong lĩnh vực rừng trồng. Với rừng tự nhiên, khả năng tăng trữ lượng carbon không còn nhiều so với đường tham chiếu trong tương lai. Vì vậy, chỉ khi có dòng vốn tư nhân tham gia (trồng rừng, phục hồi, bảo vệ rừng), tiềm năng tín chỉ carbon mới mở rộng đáng kể", Cục trưởng Trần Quang Bảo cho hay.
Liên quan điều kiện giao dịch tín chỉ carbon, ông Bảo cho biết Nghị định phải đồng bộ với các quy định hiện hành, đặc biệt là Nghị định 06/2022/NĐ-CP quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn và Nghị định 119/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 06/2022/NĐ-CP.
Theo đó, để được giao dịch, tín chỉ carbon phải gắn với dự án cụ thể. Dự thảo Nghị định lần này đã rút gọn tối đa thủ tục để tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ rừng tham gia thị trường.
Một điểm mới nổi bật trong dự thảo Nghị định là cho phép bù trừ tín chỉ carbon trong nước, thay vì chỉ hướng đến giao dịch quốc tế như trước đây. Điều này tạo thêm lựa chọn cho doanh nghiệp nội địa trong thực hiện trách nhiệm giảm phát thải, góp phần đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Cần mở tối đa để thu hút nguồn lực tài chính
Chia sẻ về dự thảo Nghị định quy định về dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng, bà Nghiêm Phương Thúy, Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm cho biết, dự thảo lần này là bước hoàn thiện khung pháp lý nhằm cụ thể hóa các cam kết về giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực lâm nghiệp, đặc biệt sau khi Việt Nam công bố mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Đây là lần đầu tiên Việt Nam xây dựng tiêu chuẩn carbon rừng trong nước, song song với cơ chế ghi nhận tín chỉ theo chuẩn quốc tế.
Liên quan đến đầu tư, bà Thúy cho biết, dự thảo khuyến khích các bên hợp tác đầu tư phù hợp với pháp luật đầu tư để triển khai dự án carbon rừng và chia sẻ lợi ích
Theo TS. Tô Xuân Phúc, Giám đốc Chương trình Chính sách, Tài chính và Thương mại rừng của Tổ chức Forest Trend, dự thảo Nghị định được xây dựng trong bối cảnh Nhà nước có thể huy động thêm nguồn tài chính mới cho công tác bảo vệ và phát triển rừng, thông qua cơ chế vận hành của thị trường carbon.
Ông Phúc chia sẻ, cách đây 2 năm có một nhà đầu tư đến gặp ông Lê Minh Hoan, khi đó là Bộ trưởng Bộ NNPTNT đặt vấn đề rằng, họ sẽ mang tiền vào đầu tư phát triển rừng, tất cả thành quả thu được người dân được hưởng, trừ carbon. Đề xuất này đã không thực hiện được vì không vì cơ chế.
Cũng theo ông Phúc, trước khi Nghi định này được soạn thảo, có một nhóm các doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam, họ có tiền và muốn đầu tư vào trồng rừng. “Họ không đòi hỏi gì, chỉ cần có cơ quan nào đó xác nhận đóng góp, nhưng cũng không thực hiện được vì không có cơ chế. Chúng ta đang lãng phí một nguồn lực lớn”, chuyên gia Forest Trends chia sẻ, đồng thời đề nghị, Nghị định cần mở hết mức để tạo nguồn tài chính cho phát triển và bảo vệ rừng. “Chúng ta không mất gì cả, chỉ cần cơ chế. Một loạt công ty đang xếp hàng để được tham gia. Đây không phải giao dịch xuyên biên giới, cũng không ảnh hưởng đến Việt Nam tham gia NDC, chuyên gia quả quyết.
Trao đổi với phóng viên về cơ chế đầu tư, TS. Tô Xuân Phúc cho rằng, một trong những điểm mấu chốt là khả năng thu hút dòng vốn không chỉ từ quốc tế, mà còn từ khu vực tư nhân trong nước. Đây sẽ là nguồn lực quan trọng để mở rộng đầu tư vào ngành lâm nghiệp, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã cam kết NDC.
Cụ thể, TS. Tô Xuân Phúc cho rằng, với những diện tích rừng trồng do hộ gia đình đầu tư bằng vốn tự có, nhất là các hộ được giao đất lâu dài, cần được coi là tài sản tư nhân. Dự thảo Nghị định cần tạo cơ chế linh hoạt, cho phép các hộ dân tự do lựa chọn hình thức tham gia thị trường carbon, bao gồm liên doanh, liên kết hay hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước.
Đối với các tài sản sở hữu toàn dân hoặc sở hữu nhà nước, sau khi Nhà nước tính toán phần tín chỉ dùng để đáp ứng cam kết NDC, phần còn lại nên được mở cửa để các tổ chức, doanh nghiệp tham gia hợp tác đầu tư, tạo tín chỉ và giao dịch trên cả thị trường trong nước và quốc tế.
“Không giống với các dịch vụ môi trường khác như nước sạch hay thủy điện vốn có người sử dụng rõ ràng, dịch vụ carbon rừng có tính chất đặc thù, người mua tín chỉ không sử dụng tài nguyên rừng mà nhằm bù đắp phần phát thải của chính họ. Chính tính chất này khiến cơ chế vận hành, giao dịch và phân bổ trách nhiệm trong dịch vụ carbon rừng phức tạp hơn, cần được thiết kế riêng biệt”, ông Trần Quang Bảo cho biết.