(thitruongtaichinhtiente.vn) - Theo TS. Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, “Open Banking” là nền tảng mở ra những cơ hội kinh doanh mới cho ngành ngân hàng và các ngân hàng cần xây dựng một hệ sinh thái đa tương tác để gia tăng chất lượng dịch vụ và sự lựa chọn cho khách hàng.
Chiều 7/10, tại phiên Báo cáo chuyên đề Ngân hàng nằm trong khuôn khổ Diễn đàn Future Banking & Financial Services Forum (Dịch vụ tài chính và ngân hàng tương lai 2021), TS. Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đã có tham luận quan trọng đánh giá tổng quan về Open Banking (ngân hàng mở) và các sản phẩm dịch vụ ngân hàng tiên tiến từ góc nhìn của các ngân hàng. Từ đó có những kiến nghị nhằm đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, tương xứng với tiềm năng hiện có.
Open Banking là xu hướng, mở ra cơ hội kinh doanh mới
Open Banking là việc cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng, tài chính thông qua đối tác công nghệ thứ ba thay vì cung cấp trực tiếp tới khách hàng theo mô hình truyền thống. Ngân hàng cho phép hệ thống/phần mềm/ứng dụng cung cấp dịch vụ của đối tác thứ ba (thường là các công ty Fintech, công ty công nghệ), từ đó xây dựng các ứng dụng, bài toán kinh doanh dựa trên nền tảng công nghệ để tối ưu hóa và nâng cao trải nghiệm dịch vụ tới khách hàng, mở rộng phạm vi, quy mô kinh doanh, gắn kết bền chặt lợi ích của đối tác và ngân hàng.
Open Banking là một trong những dấu ấn quan trọng trong quá trình đổi mới công nghệ tài chính, là một trong các khái niệm có thể ảnh hưởng tới cách thức vận hành và cung ứng dịch vụ của ngành ngân hàng. Open Banking đang thúc đẩy quá trình chuyển đổi số theo hướng thông minh và cởi mở hơn trong ngành ngân hàng.
TS. Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam. Ảnh: Huy Hoàng |
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, mô hình Open Banking được dự báo sẽ tác động căn bản tới mô hình kinh doanh, tiếp thị, kiểm soát rủi ro truyền thống, đồng thời là cơ hội cho ngành ngân hàng đổi mới và phát triển vượt bậc.
Năm 2015, Nghị viện châu Âu (EP) đã ban hành Chỉ thị về dịch vụ thanh toán sửa đổi (PSD2) để xây dựng nền tảng cho việc phát triển Open Banking. Theo lộ trình thì PSD2 đã luật hóa trong các quốc gia thành viên từ năm 2018, với việc cho phép các bên thứ ba phát triển dịch vụ thanh toán trên nền tảng của các định chế tài chính với sự đồng ý của khách hàng và vấn đề bảo mật được đặc biệt coi trọng.
Tại Nhật Bản, tháng 5/2017, Luật Ngân hàng sửa đổi đã quy định rõ trách nhiệm của các ngân hàng phải có các chính sách cụ thể để hợp tác với bên thứ ba cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử cũng như công bố các mốc thời gian để phát triển các API (Application Programming Interface - Giao diện lập trình ứng dụng) làm nền tảng kết nối.
Tại Anh, năm 2019, cơ quan quản lý cạnh tranh và điều hành thị trường (CMA) đã công bố báo cáo về thị trường ngân hàng bán lẻ, trong đó, yêu cầu 9 ngân hàng lớn (HSBC, Barclays, RBS, Santander, Bank of Ireland, Allied Irish Bank, Danske, Lloyds và Nationwide) bắt buộc phải công bố chuẩn dữ liệu, phát hành dữ liệu bảo mật để có thể dễ dàng chia sẻ trực tuyến với các bên thứ ba được ủy quyền.
Tại Việt Nam, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019 về việc chủ động, tích cực tham gia cuộc CMCN 4.0. Trước đó, Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0, đây chính là nền tảng để các bộ, ban, ngành xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin và công nghệ số để bảo đảm an toàn, an ninh mạng tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp dễ dàng, bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội phát triển nội dung số.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng đang dần hoàn thiện các khung pháp lý để quản lý hoạt động số hóa Ngân hàng theo tinh thần của Chỉ thị số 16/CT-TTg. Thống đốc NHNN đã thành lập Ban Chỉ đạo về lĩnh vực Fintech theo Quyết định số 328/QĐ-NHNN ngày 16/3/2017. Theo đó, nghiên cứu, xây dựng việc kết nối, chia sẻ dữ liệu thông qua giao diện chương trình ứng dụng mở (Open API) là một trong số nhiệm vụ trọng tâm của Ban.
Đối với các Ngân hàng thương mại, hoạt động Open Banking đang được triển khai ở nhiều cấp độ, dưới nhiều hình thức dịch vụ khác nhau. Cuối năm 2019, Ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB) ra mắt API Portal – nền tảng API mở cung cấp hơn 30 API của ngân hàng để các đối tác có thể kết nối hệ thống OCB vào hệ sinh thái. Cũng trong năm 2019, Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank) đã chính thức cho ra mắt iConnect – nền tảng Open Banking cung cấp hơn 100 APIs và đã có kết nối với trên 60 đối tác qua các APIs tại thời điểm ra mắt, con số này hiện tại đã tăng hơn gấp đôi.
Các ngân hàng lớn trên thị trường như Vietcombank, BIDV,… cũng đã bước đầu xây dựng và triển khai cung cấp Open API đến các đối tác. Nhìn chung, các ngân hàng đang ngày càng mở rộng hợp tác, kết nối với các công ty công nghệ, Fintech để đón đầu và tận dụng các cơ hội kinh doanh từ nền kinh tế số.
Tháo điểm nghẽn để phát triển dịch vụ ngân hàng
Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Nguyễn Quốc Hùng, cho rằng, Open Banking là nền tảng mở ra những cơ hội kinh doanh mới cho ngành ngân hàng. Dự báo trong giai đoạn 2021-2025, lĩnh vực ngân hàng tiếp tục có sự tăng trưởng mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng sản phẩm dịch vụ. Lĩnh vực tài chính ngân hàng đang được phát triển một cách năng động và đa dạng nhất. Các ngân hàng không ngần ngại đầu tư cho ngân hàng số, đưa ra các sản phẩm dịch vụ phong phú nhằm đáp ứng tối đa các nhu cầu của khách hàng tại tất cả các phân khúc, từ khách hàng cá nhân đến khách hàng doanh nghiệp.
Theo ông Nguyễn Quốc Hùng, thành công của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong việc phát triển dịch vụ ngân hàng trong giai đoạn hiện nay thể hiện trên 2 khía cạnh chính:
Một là, hiện đại hóa công nghệ từ đó phát triển các loại hình dịch vụ mới, kênh phân phối mới đa tiện ích như mobile banking, internet banking, QR code… Khách hàng có thể sử dụng dịch vụ của ngân hàng mọi lúc, mọi nơi thông qua các ứng dụng ngân hàng số. Và mới đây nhất, khi Ngân hàng Nhà nước đã ban hành thông tư cho phép các ngân hàng sử dụng công nghệ để định danh khách hàng – eKYC thì dịch vụ ngân hàng đang được tới gần hơn nữa với khách hàng, đặc biệt khách hàng ở vùng sâu, vùng xa, khó khăn trong tiếp cận các chi nhánh, phòng giao dịch của ngân hàng.
Hai là, phối hợp liên ngành để xây dựng hệ sinh thái mở, đưa khách hàng là trọng tâm để phục vụ. Thông qua nền tảng Open Banking, kết nối và lồng ghép các dịch vụ ngân hàng vào các lĩnh vực của cuộc sống, ví dụ như thanh toán hóa đơn điện nước, viễn thông, thanh toán trong lĩnh vực y tế, giáo dục, dịch vụ công trực tuyến …
Tuy nhiên, ông Nguyễn Quốc Hùng cho rằng các ngân hàng thương mại đang vướng mắc nhiều điểm nghẽn trong việc cung cấp đa dạng các loại hình sản phẩm, dịch vụ ngân hàng số, dịch vụ thanh toán số và trải nghiệm khách hàng như hành lang pháp lý cho việc ứng dụng các nền tảng công nghệ mới như eKYC, ngân hàng đại lý (Agent Banking), cho vay online còn chưa ổn định. Thông tin dữ liệu khách hàng cấp vĩ mô đang chuẩn hóa, nhưng còn thiếu, ví dụ như dữ liệu về dân cư. Cơ chế hợp tác, chia sẻ dữ liệu giữa các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác như Fintech… chưa rõ ràng, còn đang trong tình trạng khép kín, chưa thực sự mở. Tỷ lệ giao dịch offline, giao dịch tiền mặt, còn cao, đặc biệt tỷ lệ giao dịch tiền mặt ở khu vực nông thôn còn rất cao. Nhiều hệ sinh thái được phát triển một cách tự phát và chưa có sự liên thông. Cơ chế thí điểm Sanbox cho việc thử nghiệm các sản phẩm dịch vụ tài chính ngân hàng sau nhiều vòng lấy ý kiến của các cơ quan bộ ban ngành nhưng đến nay vẫn chưa được ban hành. Đây là một trong những cơ chế rất quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển các sản phẩm dịch vụ tiên tiến của ngân hàng.
Mô hình Open Banking được dự báo sẽ tác động căn bản tới mô hình kinh doanh, tiếp thị, kiểm soát rủi ro truyền thống. Ảnh minh họa |
Hoàn thiện hành lang pháp lý cho Open Banking
Nhằm giúp các ngân hàng đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ, phát triển tương xứng với tiềm năng, TS. Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam kiến nghị các cơ quan quản lý cần hoàn thiện cơ sở dữ liệu thông tin quốc gia thống nhất, cho phép ngân hàng thương mại được khai thác, phục vụ quá trình cung cấp sản phẩm dịch vụ cho khách hàng. Đồng thời cần đẩy nhanh việc hoàn thiện hành lang pháp lý liên quan đến áp dụng công nghệ số trong hoạt động ngân hàng và ban hành, hướng dẫn triển khai cơ chế thí điểm đối với sản phẩm tài chính mới.
Đối với các ngân hàng thương mại, tiếp tục tập trung phát triển dịch vụ ngân hàng tiên tiến, hiện đại dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ số. Đẩy nhanh phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng trên điện thoại di động và ngân hàng trực tuyến với nhiều tiện ích mới mẻ, thuận tiện, nhanh chóng và ngày càng thân thiện, dễ sử dụng hơn cho khách hàng. Bên cạnh đó, các ngân hàng cần chú trọng việc tạo ra các trải nghiệm tốt hơn cho khách hàng để nâng cao sự hài lòng, dẫn đến lòng trung thành và hướng đến mục tiêu đạt được doanh thu cao hơn từ một đối tượng cụ thể. Ngân hàng cũng cần hướng đến mục tiêu xây dựng một hệ sinh thái đa tương tác để gia tăng chất lượng dịch vụ và sự lựa chọn cho khách hàng, cũng như phát triển hoạt động kinh doanh và bán chéo sản phẩm gắn với những tiện ích cuộc sống hằng ngày.
Ngoài ra, theo ông Hùng, ngân hàng cần đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ cho các đối tượng khách hàng, lấy khách hàng làm trung tâm và xây dựng các sản phẩm dịch vụ chuyên biệt dành cho từng nhóm đối tượng cụ thể.