Tổng cầu đóng vai trò quan trọng trong xác định mức độ sản xuất và việc làm trong nền kinh tế. Đây cũng là nhiệm vụ quan trọng đối với nền kinh tế trong những tháng cuối năm 2023. Vấn đề là làm sao để phục hồi tổng cầu, tăng trưởng kinh tế?. Câu trả lời vừa được các chuyên gia hàng đầu của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đưa ra mới đây.
Kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức, ảnh hưởng tiêu cực tới tất cả các thành phần của tổng cầu của nền kinh tế khiến mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2023 ở mức 6,5% năm khó có thể đạt được.
Để tháo gỡ khó khăn và phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng đề ra, các nhà khoa học hàng đầu của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân qua thời gian nghiên cứu đã đưa ra 7 kiến nghị, trong đó có kiến nghị liên quan đến khơi thông dòng vốn tín dụng.... nhằm phục hồi tổng cầu trong những tháng cuối năm 2023.
Hai quý đầu năm 2023, tình hình kinh tế - xã hội trong nước có nhiều diễn biến không thuận lợi. GDP 6 tháng đầu năm tăng trưởng 3,72%, mức tăng thấp so với GDP cùng kỳ trong giai đoạn 10 năm qua (chỉ cao hơn tốc độ tăng 1,74% cùng kỳ của năm 2020, do ảnh hưởng mạnh của COVID-19 thời điểm đó).
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiếp tục gặp khó khăn, thị trường bị thu hẹp, đơn hàng sụt giảm đặc biệt tại các thị trường lớn như: Hoa Kỳ, châu Âu và Trung Quốc. 8 tháng năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 435,23 tỷ USD, giảm 13,1% so với cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước trong 8 tháng năm 2023 ước đạt 352,1 nghìn tỷ đồng, mới bằng 49,4% kế hoạch năm.
Trước tình hình khó khăn của nền kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân kiến nghị Chính phủ có thể xem xét đẩy mạnh chính sách tài khóa nghịch chu kỳ nhằm thúc đẩy tổng cầu và đạt được tăng trưởng ổn định trong bối cảnh suy thoái, đặc biệt khi ngân sách không quá căng thẳng và nợ công có xu hướng giảm.
Theo Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, mục tiêu đạt được tăng trưởng ổn định của chính sách tài khóa nghịch chu kỳ được thực hiện qua hai công cụ gồm tăng chi tiêu công và giảm thuế.
“Chính phủ cần tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế chính sách để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công nhằm mang lại hiệu quả kịp thời. Việc giảm thuế cần áp dụng đúng đối tượng, đơn giản hóa thủ tục hoàn thuế. Các quy định về thuế đối với từng nhóm đối tượng cần nhất quán, tránh mâu thuẫn như giảm thuế giá trị gia tăng nhưng lại tăng thuế tiêu thụ đặc biệt”, các chuyên gia của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân nhấn mạnh.
Theo Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, để đưa dòng vốn đầu tư công sớm chảy vào nền kinh tế, cần xác định rõ nguyên nhân và triển khai quyết liệt một số giải pháp.
Cụ thể, cần có các giải pháp sửa đổi, hoàn thiện quy định pháp luật theo hướng giảm vướng mắc trong tất cả các khâu quản lý dự án, từ chuẩn bị đến quy hoạch và thực hiện, như nghiên cứu thêm trường hợp chủ đầu tư có thể chủ động sử dụng một số khoản kinh phí hợp pháp ngoài kế hoạch đầu tư công trung hạn (kể cả nguồn vốn chi thường xuyên) để lập dự án, chuẩn bị đầu tư trước thay vì phải đợi tổng hợp hay bổ sung vào kế hoạch đầu tư công trung hạn.
Bên cạnh đó, cần bổ sung thêm các quy định về điều kiện phân bổ kế hoạch vốn hằng năm cho các nhiệm vụ chuẩn bị và quy hoạch nhằm tạo điều kiện cho chủ đầu tư tiếp cận được vốn cho nhiệm vụ chuẩn bị và chủ động lập các kế hoạch đầu tư.
Đối với các dự án đầu tư xây dựng, để dự án được nhanh chóng thực hiện, cần giải quyết các vấn đề cốt lõi của khâu giải phóng mặt bằng.
Để giải quyết các vấn đề cốt lõi nêu trên, khi xây dựng bảng giá đất hàng năm, các cơ quan chức năng cần chú trọng đến khả năng năng và lợi thế của từng khu vực, vị trí đất, nhất là đối với đất nông nghiệp, các vị trí thuận lợi kinh doanh để xác định mức bồi thường phù hợp với giá trị thực tế. Ngoài ra, cần xác định chính xác tổng mức đền bù của dự án, tránh trường hợp không đáp ứng đủ cầu. Khi xây dựng kế hoạch đầu tư cần xác định rõ quỹ đất tái định cư, phát triển hạ tầng và dịch vụ thiết yếu, đảm bảo chất lượng cuộc sống của người dân.
Các cơ quan chức năng cũng cần phối hợp với các trung tâm dịch vụ việc làm, lên hoạch định hướng, đào tạo nghề để người dân có công ăn việc làm ổn định thay vì chỉ chi trả bằng tiền. Công tác này đặc biệt quan trọng đối với hộ dân bị thu hồi đất nông nghiệp.
Mặt khác, cần tăng cường công tác rà soát, quản lý việc sử dụng đất đai trên địa bàn. Đặc biệt, đối với những hộ sử dụng trái phép hoặc sai mục đích, có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế khi không chấp hành bàn giao mặt bằng.
Diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19 thời gian qua đã làm cho thị trường lao động Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề. Tình trạng sụt giảm sản xuất của các doanh nghiệp dẫn đến hàng trăm nghìn người lao động bị giảm giờ làm, mất việc làm, nhất là tại các khu công nghiệp, gây ảnh hưởng tới đời sống và quyền được hưởng an sinh xã hội của người lao động.
Trong tình hình khó khăn đó, mạng lưới an sinh xã hội và các chính sách hỗ trợ cho người lao động lại chưa được đảm bảo tốt. Bên cạnh đó, tư duy quản lý về an sinh xã hội vẫn chưa theo kịp quá trình đổi mới đất nước. Tầng cuối cùng của hệ thống an sinh xã hội cũng là chức năng chiến lược thứ 3 là những chính sách, chương trình khắc phục rủi ro (bao gồm các chính sách, chương trình về cứu trợ và trợ giúp xã hội) chưa được thực hiện tốt.
Để cải thiện điều này, các chuyên gia Trường Đại học Kinh tế Quốc dân chỉ ra 2 nhóm giải pháp cần triển khai, cụ thể:
Thứ nhất, cần đưa nhóm yếu thế vào trung tâm, trọng tâm của các chính sách an sinh xã hội.
Thứ hai, đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ mới; chi trả, đóng nộp, thụ hưởng với sự hỗ trợ của các công cụ công nghệ thông tin, nghe nhìn, internet trong các phần mềm quản lý dữ liệu và chia sẻ dữ liệu, tiến tới xây dựng mã số định danh an sinh xã hội duy nhất trong thực thi chính sách an sinh xã hội, tạo sự thống nhất và thuận lợi trong việc quản lý, tiếp cận phát triển, cũng như hỗ trợ các đối tượng cần thụ hưởng.
Đồng thời, tăng cường nguồn lực tài chính đầu tư phục vụ cho quá trình chuyển đổi số hóa an sinh xã hội từ trung ương đến địa phương, đặc biệt là cấp huyện, cấp xã.
Mặc dù WTO và các hiệp định thương mại tự do đều hướng tới mục tiêu dỡ bỏ các rào cản thương mại nhưng thực tế vẫn cho phép các nước thành viên sử dụng một số công cụ chính sách thương mại để bảo vệ ngành sản xuất trong nước đối với hàng hóa nhập khẩu. Vì vậy, phòng vệ thương mại sẽ là công cụ để các quốc gia bảo vệ hàng hóa trong nước cũng như định hình thị trường, dẫn tới nguy cơ kiện phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu Việt Nam ngày càng lớn.
Do vậy, trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã đưa ra 3 giải pháp để giảm thiểu rủi ro do điều tra phòng vệ thương mại hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, gồm:
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác dự báo, cảnh báo sớm cho các doanh nghiệp những mặt hàng có thể gặp rủi ro bị tiến hành điều tra. Phương pháp điều tra ngoài theo dõi dựa trên các mặt hàng có khối lượng xuất khẩu tăng đột biến hoặc chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu xuất khẩu tới các thị trường cần tích cực theo dõi dòng chảy thương mại của từng mặt hàng trên thế giới, xây dựng mô hình dự báo chính xác hơn; đặc biệt các mặt hàng đang bị điều tra tại các quốc gia khác.
Thứ hai, thực hiện các giải pháp chứng minh hàng hóa Việt Nam không bán phá giá. Bộ Công Thương cần đẩy mạnh hơn nữa công tác trao đổi, chia sẻ với các doanh nghiệp nhằm giúp họ nắm được những nguyên tắc điều tra, thấy rõ được tầm quan trọng của doanh nghiệp. Ngoài ra, vài trò của các cơ quan Nhà nước quan trọng hơn nữa trong hỗ trợ doanh nghiệp hoàn thiện hồ sơ minh chứng, thiết lập quy trình thực hiện cụ thể, công khai để các doanh nghiệp nắm rõ hơn.
Thứ ba, cân bằng cán cân thương mại với các đối tác. Cụ thể, cần triển khai quyết liệt hơn nữa như triển khai nhiều hơn các chương trình giúp doanh nghiệp của các đối tác lớn tiếp cận được với doanh nghiệp trong nước. Cùng với đó, cần có thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi hơn, đặc biệt cần giảm thuế cho các mặt hàng máy móc, thiết bị từ các thị trường mà Việt Nam đang có thặng dư thương mại.
Những năm gần đây, cùng với sự gia tăng tỷ trọng của ngành dịch vụ trong cơ cấu GDP thì kim ngạch xuất khẩu dịch vụ của cả nước đã có sự gia tăng mạnh.
Tuy nhiên, Việt Nam đã nhập siêu dịch vụ lớn và liên tục trong nhiều năm qua. Trong 3 năm gần đây, nhập siêu dịch vụ luôn vượt con số 10 tỷ USD và riêng trong 6 tháng đầu năm 2023, nhập siêu dịch vụ lên tới 4,1 tỷ USD.
Theo TS. Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng Cục trưởng Tổng cục Thống kê, nếu giảm 1% nhập siêu dịch vụ sẽ làm GDP tăng 0,36 điểm phần trăm, khẳng định xuất khẩu dịch vụ là nguồn thu lớn và mang lại nhiều tiềm năng kinh tế mới cho đất nước. Việt Nam mới chỉ chú trọng đến xuất nhập khẩu hàng hóa mà chưa thực sự quan tâm đến xuất-nhập khẩu dịch vụ mặc dù các ngành dịch vụ của Việt Nam như du lịch, tài chính, ngân hàng, vận tải và logistics,... đều có tiềm năng phát triển rất lớn.
Vì vậy, theo các chuyên gia Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, điều cấp thiết hiện nay là thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ hướng tới cân đối cán cân xuất-nhập khẩu dịch vụ một cách bền vững. Cụ thể, cần khẩn trương nghiên cứu và rà soát các văn bản pháp luật, tạo các chiến lược và chương trình hành động nhằm cụ thể hóa mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp và các hành động để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các dịch vụ, phù hợp với lộ trình cam kết và các hiệp định song phương, đa phương nhằm hoàn thiện môi trường kinh doanh bình đẳng và an toàn cho các tổ chức dịch vụ hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
Đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và các chuẩn mực, thông lệ quốc tế phù hợp với điều kiện Việt Nam để nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của các dịch vụ xuất khẩu.
Bên cạnh đó, xuất khẩu dịch vụ hầu như phụ thuộc chủ yếu vào du lịch. Do đó, muốn giảm nhập siêu dịch vụ cần có nhiều chính sách tạo điều kiện thuận lợi thu hút khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam, chẳng hạn như kết nối làm thị trường giữa hàng không và du lịch, kích cầu du lịch và giảm vé máy bay.
Thực tế cho thấy, Việt Nam đang phụ thuộc chủ yếu vào một số thị trường xuất khẩu lớn. Vì vậy, khi các quốc gia này rơi vào giai đoạn khủng hoảng, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đối mặt với những cú sốc lớn và bị gián đoạn. Mặt khác, các nhà sản xuất Việt Nam đang gặp nhiều thách thức khi sản phẩm chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi năng lượng xanh – sạch, sản xuất cacbon thấp, vật liệu bền vững, sản xuất thân thiện môi trường… từ thị trường nhập khẩu.
Để thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa bền vững đi liền với đa dạng hóa thị trường hướng đến cán cân thương mại lành mạnh, hợp lý với các đối tác, các chuyên gia trường Đại học Kinh tế Quốc dân chỉ ra 4 nhóm giải pháp, gồm:
Thứ nhất, mở rộng giao thương với các thị trường trong các FTA đã ký kết. Thay vì chỉ tập trung sâu một số thị trường lớn, cần khai thác cơ hội từ các FTA để mở rộng thị trường tiêu thụ sang các nước thành viên khác.
Thứ hai, rà soát và ban hành tiêu chuẩn khung pháp lý về sản xuất xanh cho các doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể, cần tiến hành xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý, bổ sung các tiêu chuẩn, tiêu chí xanh trong sản xuất để giúp các doanh nghiệp thuận lợi hơn trong định hướng chuyển đổi xanh của mình.
Các bộ tiêu chí cần bổ sung bao gồm toàn diện các khía cạnh của sản xuất xanh như cải tiến quy trình sản xuất, sử dụng nguồn nguyên vật liệu tự nhiên, nhiên liệu, hóa chất không gây độc hại, tiết kiệm năng lượng điện, nước trong quá trình sản xuất, sử dụng năng lượng sạch, cũng như lắp đặt hệ thống quản lý chất lượng an toàn vệ sinh và hệ thống xử lý chất thải.
Thứ ba, khung pháp lý liên quan đến cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh cũng cần được sớm hoàn thiện để các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn và để các tổ chức tín dụng có thể thuận lợi hơn trong công tác cấp tín dụng xanh.
Thứ tư, cần bổ sung những chính sách, chương trình hỗ trợ phù hợp để khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện các mô hình sản xuất xanh.
Nhằm giúp khơi thông dòng vốn tín dụng cho doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ sớm phục hồi sản xuất kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân kiến nghị một số giải pháp như:
Thứ nhất, thực hiện hiệu quả các quy định về cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ tại các tổ chức tín dụng nhằm giúp doanh nghiệp giảm bớt áp lực về tỷ lệ nợ xấu và chi phí dự phòng rủi ro.
Thứ hai, phát triển các sản phẩm tín dụng đặc thù cho doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm giải quyết khó khăn về điều kiện vay vốn khi vay theo phương thức truyền thống.
Để tháo gỡ khó khăn về tài sản đảm bảo, các ngân hàng có thể cân nhắc các giải pháp linh hoạt như cho phép thế chấp khoản phải thu, quyền đòi nợ hình thành trong tương lai từ hợp đồng thương mại, thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay để hỗ trợ doanh nghiệp.