(thitruongtaichinhtiente.vn) - Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, lũy kế từ ngày 15/8/2017 (thời điểm Nghị quyết 42 có hiệu lực) đến ngày 31/8/2019, toàn hệ thống TCTD đã xử lý được 236,8 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42. Tính trung bình, mỗi tháng toàn hệ thống xử lý được khoảng 9,6 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn 4,7 nghìn tỷ đồng so với kết quả xử lý nợ xấu trung bình từ năm 2012-2017 trước khi Nghị quyết 42 có hiệu lực.
Cũng tính đến tháng 8/2019, tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) chưa xử lý và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu của hệ thống TCTD ở mức 4,84%, giảm mạnh so với mức 10,08% cuối năm 2016, mức 7,36% cuối năm 2017 và mức 5,85% cuối năm 2018.
Kết quả này cho thấy, quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết 42 /2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (Nghị quyết 42) và Quyết định 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020” đã và đang phát huy hiệu quả, góp phần đẩy mạnh công tác xử lý nợ xấu của các TCTD. Tuy vậy, hiện nay, vẫn tồn tại nhiều khó khăn trong thực tiễn xử lý nợ xấu của các TCTD, trong đó có liên quan tới giải quyết tranh chấp tại tòa án. Những vướng mắc, bất cập đó đã được các TCTD phản ánh tại Hội thảo “Thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan đến tín dụng ngân hàng tại Tòa án nhân dân” do Hiệp hội Ngân hàng và Tòa án Nhân dân tối cao (TANDTC) phối hợp tổ chức trong tháng 10/2019 vừa qua, trong đó nổi lên một số vấn đề và có thể được TANDTC hướng dẫn rõ để tòa án các cấp thống nhất hiểu và áp dụng, đó là:
Về việc tài sản đã thế chấp cho TCTD phát sinh tranh chấp quyền sở hữu và quyền sử dụng đất giữa chủ sở hữu cũ và bên bảo đảm (chủ sở hữu hiện tại)
Trong thực tế phát sinh trường hợp tài sản thế chấp tại TCTD đã được công chứng/chứng thực hợp đồng thế chấp và đăng ký biện pháp bảo đảm theo đúng quy định thì xuất hiện tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng giữa chủ sở hữu cũ và chủ sở hữu hiện tại. Chủ sở hữu cũ yêu cầu tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng với chủ sở hữu hiện tại và yêu cầu hủy luôn hợp đồng thế chấp mà chủ sở hữu hiện tại ký với TCTD. Yêu cầu này đã được một số tòa chấp nhận. Về phía mình, các TCTD cho rằng quan điểm trên là chưa phù hợp cả về pháp lý và thực tiễn, có thể dẫn đến hệ quả nguy hiểm là khoản nợ (có khi giá trị lên đến nhiều nghìn tỷ đồng) của TCTD được bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất mất tài sản bảo đảm, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các TCTD. Căn cứ văn bản số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của TANDTC hướng dẫn thực hiện Khoản 2 Điều 133 Bộ Luật Dân sự 2015 đã nêu rõ: “Trường hợp giao dịch chuyển nhượng nhà đất bị vô hiệu nhưng bên nhận chuyển nhượng đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và đã thế chấp nhà, quyền sử dụng đất đó cho Ngân hàng theo đúng quy định của pháp luật thì giao dịch thế chấp đó không vô hiệu”. Bên cạnh đó, trong thực tế khi nhận thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, các TCTD chỉ căn cứ vào Giấy chứng nhận hợp pháp được cơ quan có thẩm quyền cấp và thực hiện thủ tục theo đúng quy định pháp luật. Các TCTD không thể biết và không có điều kiện để biết việc sở hữu tài sản của bên thế chấp có hợp pháp hay không. Ngoài ra, không có quy định nào của pháp luật quy định trách nhiệm của TCTD phải thẩm tra các giao dịch chuyển giao trước khi tài sản được cơ quan Nhà nước cấp Giấy chứng nhận cũng như quy định TCTD có chức năng, thẩm quyền để thẩm tra nguồn gốc hình thành tài sản được cấp bởi Giấy chứng nhận đó.
Do đó, trong trường hợp này, các TCTD đã nhận thế chấp theo đúng quy định của pháp luật thì TCTD là bên ngay tình, cần được bảo vệ quyền lợi theo quy định của pháp luật.
Về xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ cho bên thứ ba
Cũng liên quan đến việc xử lý tài sản thế chấp, trong quá trình giải quyết tranh chấp, các Tòa án chưa có quan điểm thống nhất chấp nhận giao dịch bảo đảm dưới hình thức cầm cố, thế chấp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự cho người khác (bên thứ ba). Một số tòa án địa phương có quan điểm cho rằng hợp đồng thế chấp/cầm cố tài sản để bảo đảm nghĩa vụ của bên thứ ba là không đúng quy định của Bộ Luật Dân sự, với lý do là biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ của bên thứ ba phải là biện pháp “bảo lãnh” nên đã tuyên hợp đồng này vô hiệu. Trong khi đó, theo quy định tại Điều 309, 317 Bộ Luật Dân sự 2015, Ðiều 326, 342 Bộ Luật Dân sự 2005, thì bên cầm cố, thế chấp có quyền dùng tài sản của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, không hạn chế đó là nghĩa vụ của mình hay của người khác. Đồng thời, Điều 336 Bộ Luật Dân sự 2015 về phạm vi bảo lãnh đã quy định thêm nội dung bên bảo lãnh có thể sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Như vậy, theo các TCTD, quan điểm trên của tòa án chưa phù hợp. Đặc biệt, nếu bên thứ ba (bên thế chấp) lợi dụng để yêu cầu tòa án tuyên hợp đồng thế chấp bằng quyền sử dụng đất của bên thứ ba vô hiệu nhằm trốn tránh nghĩa vụ của mình đối với ngân hàng (bên nhận thế chấp) thì hệ quả tiếp theo có thể dẫn đến vô hiệu hàng loạt hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba trong toàn hệ thống ngân hàng. Điều này sẽ tạo ra tiền lệ xấu cả về mặt pháp lý và kinh tế, gây rủi ro lớn đối với hoạt động ngân hàng.
Về áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao TSBĐ và xử lý TSBĐ
Ngày 15/5/2018, Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao TSBĐ, tranh chấp về quyền xử lý TSBĐ của khoản nợ xấu. Tuy nhiên, số lượng các vụ việc xử lý nợ xấu thông qua thủ tục rút gọn tại tòa án đến nay còn rất hạn chế, phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả của biện pháp quy định tại Khoản 1 Điều 8 Nghị quyết 42.
Thực trạng này là do nhiều Tòa án áp dụng điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn theo Điều 317 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 mà không áp dụng các điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn quy định tại Nghị quyết 42 nhằm tránh phát sinh trách nhiệm liên quan khi bên vay, bên bảo đảm đưa ra ý kiến không thống nhất hoặc từ chối nghĩa vụ nợ, nghĩa vụ được bảo đảm, giá trị định giá TSBĐ, hoặc cố tình vắng mặt khỏi nơi cư trú... nhằm trốn tránh, trì hoãn thực hiện nghĩa vụ với TCTD. Vì vậy, hầu hết các trường hợp TCTD khởi kiện yêu cầu giao tài sản, quyền xử lý TSBĐ của các khoản nợ xấu không được giải quyết theo thủ tục rút gọn theo quy định của Nghị quyết 42.
Để hỗ trợ các TCTD rút ngắn thời gian xử lý nợ xấu thông qua việc áp dụng thủ tục rút gọn, TANDTC nên sớm có văn bản gửi các tòa án địa phương đề nghị áp dụng các thủ tục rút gọn quy định tại Khoản 1 Điều 8 Nghị quyết 42, không căn cứ điều kiện quy định tại Điều 317 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.
Về việc hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án
Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục, thời hạn hoàn trả TSBĐ là vật chứng trong vụ án hình sự theo quy định của Nghị quyết 42. Điều này dẫn đến quyết định về thời hạn hoàn trả hoàn toàn phụ thuộc vào nhận định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong khi đó, trong thời gian kê biên, phong tỏa thì ngân hàng không thể xử lý để thu hồi nợ theo hợp đồng bảo đảm, nhiều trường hợp chỉ khi có quyết định hoặc bản án có hiệu lực pháp luật thì ngân hàng mới thực hiện được quyền xử lý thông qua hoạt động thi hành án. Việc này làm giảm hiệu quả xử lý nợ xấu của TCTD do tuột mất cơ hội xử lý, mất nhiều thời gian, trong một số trường hợp có thể làm giảm giá trị tài sản bảo đảm.
Về vấn đề này, TANDTC cần sớm có hướng dẫn về trình tự, thủ tục thời điểm/thời hạn hoàn trả các tài sản bảo đảm là vật chứng của vụ án hình sự sau khi đã hoàn tất các thủ tục xác minh chứng cứ theo quy định tại Nghị quyết 42. Đồng thời, có văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết những trường hợp có thể giải tỏa kê biên trong quá trình xét xử để ngân hàng có căn cứ đề nghị cơ quan có thẩm quyền phát mại tài sản cũng như ban hành quy định về việc hoàn trả TSBĐ là tang vật của các vụ việc hành chính cho các TCTD trong giai đoạn xét xử.
Về việc tuyên vô hiệu (một phần hoặc toàn bộ) hợp đồng bảo đảm bằng tiền gửi ngân hàng do chỉ có Người gửi tiền ký kết mà không có chấp thuận của cả hai vợ chồng
Quyết định trên của tòa xuất phát từ quan điểm cho rằng đây là loại tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân nên cần có sự chấp thuận của cả hai vợ chồng. Tuy nhiên, về mặt pháp lý, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 tại khoản 1 Điều 32 đã quy định: “Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng là người đứng tên tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó”. Quyết định 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13/9/2004 của NHNN quy định “chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm là người đứng tên trên thẻ tiết kiệm” (Khoản 3 Điều 24) và cho phép “người gửi tiền là chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm được cầm cố thẻ tiết kiệm để vay vốn tại các TCTD nếu được TCTD đó chấp thuận” (Khoản 2 Điều 21). Các quy định về tiền gửi tiết kiệm tại Thông tư 48/2018/TT-NHNN cũng quy định: Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền được người gửi tiền gửi tại TCTD. Thẻ tiết kiệm/Sổ tiết kiệm là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu của Người gửi tiền tại TCTD.
Như vậy, người đứng tên trên thẻ tiết kiệm được pháp luật công nhận là “chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm”, là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến số tiền gửi tiết kiệm đó tại TCTD, trong đó bao gồm cả giao dịch bảo đảm. Việc Người gửi tiền cầm cố, thế chấp tiền gửi tiết kiệm do mình đứng tên trên thẻ tiết kiệm cũng phù hợp với quy định về cầm cố, thế tài sản quy định tại Điều 309 và Điều 317 Bộ luật Dân sự 2015.
Mặt khác, theo pháp luật ngân hàng, khi TCTD nhận cầm cố/ thế chấp Thẻ tiết kiệm mà lại phải mời vợ (hoặc chồng) của người đứng tên trên thẻ tiết kiệm để tìm hiểu đó là tài sản chung hay tài sản riêng thì dẫn đến việc các TCTD sẽ mâu thuẫn với nguyên tắc bảo mật thông tin liên quan đến tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi, các giao dịch của khách hàng tại TCTD (Khoản 2 và Khoản 3 Điều 14 Luật các TCTD 2010).
Cũng cần phải nhấn mạnh là, cách hiểu của tòa án nêu trên có thể dẫn đến hệ lụy là mọi giao dịch liên quan đến tài khoản ngân hàng (tài khoản tiền gửi, tài khoản thanh toán) hay Thẻ tiết kiệm đều cần có ý kiến định đoạt của bên vợ hoặc chồng của khách hàng giao dịch. Với số lượng (đến hàng triệu) tài khoản tiết kiệm, tiền gửi, nếu bắt buộc phải thực hiện theo quy định trên sẽ dẫn đến rất nhiều người phải đến thực hiện các giao dịch liên quan đến tài khoản ngân hàng, tăng chi phí, thủ tục cho TCTD và cả khách hàng, ngược với chủ trương cải cách thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho người dân của Đảng, Chính phủ.
Ngoài ra, hoạt động của các TCTD sẽ gặp rất nhiều rủi ro và nguy hiểm, khi có nhiều cá nhân nhân danh đồng sở hữu tài sản để tranh chấp với các TCTD khi xử lý tài sản cầm cố là thẻ tiết kiệm. Việc tranh chấp này sẽ không chỉ dừng lại đối với nghiệp vụ cho vay như đã nêu trên, mà còn có thể rủi ro ngay cả cho hoạt động tiền gửi. Cụ thể, người đứng tên trên thẻ tiết kiệm (chủ sở hữu) đã rút tiền tiết kiệm, nhưng vợ/chồng người đó khiếu nại về quyền sở hữu thẻ tiết kiệm với TCTD và yêu cầu TCTD phải chịu trách nhiệm. Điều này sẽ rất nguy hiểm cho hoạt động của TCTD trên diện rộng và các TCTD sẽ không thể kiểm soát.
Do vậy, TANDTC nên sớm có hướng dẫn với tòa án địa phương các cấp về trường hợp TCTD giao kết hợp đồng bảo đảm với người đứng tên trên thẻ tiết kiệm, tài khoản tại ngân hàng theo đúng quy định của pháp luật thì TCTD được coi là ngay tình và giao dịch đó có hiệu lực pháp luật.
Nghị quyết 42 của Quốc hội, Quyết định 1058 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020" là những văn bản pháp lý quan trọng, giúp tháo gỡ được nhiều khó khăn, vướng mắc về xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng và tạo nên những chuyển biến tích cực trong quan hệ giữa người cho vay và người đi vay. Tuy nhiên, xử lý nợ xấu là quá trình đòi hỏi sự tham gia, phối hợp của nhiều bên liên quan như TANDTC, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp… nhằm chia sẻ, tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ ngành ngân hàng xử lý nhanh hơn, tốt hơn nợ xấu, giải phóng vốn và tài sản bảo đảm tồn đọng trong các khoản nợ xấu, qua đó lành mạnh hóa hoạt động ngân hàng và có thêm điều kiện để cung ứng vốn cho nền kinh tế, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế đất nước.