Đây là yêu cầu Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đặt ra tại Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam, tổ chức ngày 22/12/2023.
Thủ tướng nêu rõ những cơ sở chính trị rất quan trọng để phát triển ngành công nghiệp văn hóa, gồm 2 nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và XIII, 2 nghị quyết chuyên đề của Trung ương, kết luận của Bộ Chính trị và chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Về tình hình phát triển công nghiệp văn hóa của Việt Nam, Thủ tướng chỉ rõ những kết quả đạt được rất đáng trân trọng.
Thứ nhất, đã có sự thống nhất chung trong chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thể hiện qua các nghị quyết, chiến lược, văn bản chỉ đạo, từ đó nhận thức chung trong xã hội về phát triển công nghiệp văn hóa đã được nâng lên.
Thứ hai, các cơ chế, chính sách pháp luật liên quan đến công nghiệp văn hóa được bổ sung, hoàn thiện phù hợp với tình hình và bối cảnh mới. Từ năm 2018 đến nay, Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua việc sửa đổi, bổ sung 4 luật và ban hành 4 nghị định liên quan đến công nghiệp văn hóa. Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 đã đưa ra chỉ tiêu phấn đấu giá trị gia tăng của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP.
Thứ ba, ngành công nghiệp văn hóa đóng góp tích cực vào thành tựu phát triển KTXH chung của đất nước. Đóng góp của công nghiệp văn hóa năm 2021 đạt 3,92% GDP. Năm 2022, tăng lên 4,04% GDP.
Các sản phẩm công nghiệp văn hóa trên các lĩnh vực (âm nhạc, hội họa, văn chương, sân khấu, điện ảnh…) ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của công chúng, trong đó nhiều sản phẩm có giá trị cao, tạo được tiếng vang trong nước và quốc tế. Nhiều di sản văn hóa được khai thác có hiệu quả; nhiều ca sĩ Việt đạt hàng trăm triệu lượt xem trên YouTube hay được yêu thích trên các nền tảng số khác trong và ngoài nước…
Thứ tư, ngày càng nhiều doanh nghiệp, người lao động tham gia phát triển công nghiệp văn hóa. Giai đoạn 2018-2022, số lượng các cơ sở kinh tế hoạt động trong các ngành công nghiệp văn hóa tăng khá cao ở mức 7,2%/năm (hiện có trên 70.000 cơ sở kinh tế). Lực lượng lao động thuộc các ngành công nghiệp văn hóa tăng khá nhanh ở mức 7,4%/năm (hiện thu hút khoảng 2,3 triệu lao động, chiếm 4,42% tổng lực lượng lao động của toàn nền kinh tế).
Thứ năm, mô hình tổ chức đào tạo nhân lực cho phát triển công nghiệp văn hóa từng bước được hoàn thiện theo hướng phù hợp, chuyên nghiệp, bài bản, nhất là cho tài năng trẻ trong lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật.
Thứ sáu, xây dựng mạng lưới liên kết, thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số trong công nghiệp văn hóa được chú trọng, đạt được kết quả bước đầu. Mạng lưới liên kết, kết nối các trung tâm văn hóa, không gian sáng tạo trong nước và quốc tế dần hoàn thiện. Cơ sở dữ liệu về các di tích văn hóa - lịch sử, nhà hát, trung tâm biểu diễn nghệ thuật, chiếu phim, bảo tàng được đẩy mạnh xây dựng, tạo nền tảng quan trọng xây dựng cơ sở dữ liệu toàn diện về du lịch văn hóa nói riêng, công nghiệp văn hóa nói chung.
Về tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc, Thủ tướng chỉ rõ, chưa quy định rõ vai trò quản lý nhà nước, trách nhiệm, quyền hạn đối với một số lĩnh vực trong ngành công nghiệp văn hóa (như thiết kế mỹ thuật công nghiệp, thiết kế thời trang); cơ chế phối hợp thiếu đồng bộ.
Thể chế, cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp văn hóa chưa theo kịp thực tiễn; công tác tổ chức thực hiện trong một số ngành, lĩnh vực thuộc công nghiệp văn hóa chưa hiệu quả (như việc xử lý các vấn đề sao chép, vi phạm bản quyền...).
Nguồn lực đầu tư cho công nghiệp văn hóa chưa tương xứng, còn dàn trải; việc huy động các nguồn lực ngoài nhà nước, phương thức đối tác công tư (PPP) chưa đạt yêu cầu.
Nội dung, hình thức sản phẩm, dịch vụ trong các lĩnh vực công nghiệp văn hóa còn hạn chế (thiếu những sản phẩm, tác phẩm lớn, phản ánh được hơi thở, sự phát triển KTXH của đất nước; một số tác phẩm có biểu hiện "lệch chuẩn"); dễ bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài như suy thoái kinh tế, dịch bệnh… (Phim nước ngoài chiếm trên 70% phim chiếu rạp; phim truyền hình chủ yếu là phim nước ngoài).
Nguồn nhân lực trong các ngành công nghiệp văn hóa chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, cả về số lượng và chất lượng; thiếu chính sách đãi ngộ phù hợp.
Nhiều lĩnh vực trong công nghiệp văn hóa chưa chuẩn hóa được phương pháp thống kê, thiếu hệ thống theo dõi, nên rất khó đánh giá tình hình phát triển (hiện 3/5 lĩnh vực chủ yếu có chỉ tiêu theo dõi trong Chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa nhưng chưa có số liệu đánh giá cụ thể).
Chỉ ra những bài học kinh nghiệm, Thủ tướng nêu rõ, phát triển văn hóa nói chung, công nghiệp văn hóa nói riêng phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và sự phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể có liên quan.
Cùng với đó, cần phát huy tối đa nội lực và tranh thủ ngoại lực, trong đó nội lực là cơ bản, chiến lược, lâu dài, quyết định; ngoại lực là quan trọng, đột phá. Con người là trung tâm, là chủ thể, là động lực, nguồn lực quan trọng nhất và là mục tiêu của phát triển văn hóa.
Đặc biệt, cần phát huy tinh thần tự hào dân tộc, nêu cao tinh thần quyết tâm, vượt khó, đoàn kết, tự lực, tự cường, chủ động thích ứng, linh hoạt, đổi mới sáng tạo. Bám sát thực tiễn, tôn trọng thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo. Gắn kết chặt chẽ, hiệu quả giữa lĩnh vực văn hóa với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Thủ tướng chỉ rõ 6 quan điểm phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.
Thứ nhất, phát triển công nghiệp văn hóa phải bám sát chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về văn hóa, nhất là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ, các nghị quyết chuyên đề, Nghị quyết Đại hội XII, XIII của Đảng, Đề cương văn hóa Việt Nam (1943), phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc.
Thứ hai, phát triển công nghiệp văn hóa phải góp phần quan trọng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng; phải được đặt trong tổng thể phát triển KTXH, kết nối các hoạt động sáng tạo, văn hóa, nghệ thuật với sản xuất, kinh doanh, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, hài hòa, dựa trên đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Công nghiệp văn hóa phải được tiếp cận bình đẳng với các ngành công nghiệp khác về tiếp cận vốn, đất đai, thuế và các ưu đãi khác.
Thứ ba, phát triển có trọng tâm, trọng điểm công nghiệp văn hóa theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, năng động, sáng tạo, có tính cạnh tranh cao, đồng thời đa dạng hóa, liên kết đa ngành, đa lĩnh vực; phù hợp với các quy luật cơ bản của kinh tế thị trường và xu thế của thời đại.
Thứ tư, phát triển công nghiệp văn hóa phải gắn liền với việc quảng bá, lan tỏa hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, góp phần bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế, đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Phát triển văn hóa phải gắn liền với phát triển du lịch.
Thứ năm, các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa phải đảm bảo đáp ứng được các yếu tố "Sáng tạo - Bản sắc - Độc đáo - Chuyên nghiệp – Lành mạnh - Cạnh tranh – Bền vững", trên nền tảng "Dân tộc - Khoa học - Đại chúng" theo Đề cương Văn hóa Việt Nam (1943), từng bước tạo dựng thương hiệu cho sản phẩm và dịch vụ mang tầm quốc gia, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Thứ sáu, việc triển khai các nhiệm vụ, giải pháp phải đồng bộ, quyết liệt, kiên trì, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào các chính sách có tính chất đột phá nhằm chuyển hóa tài nguyên văn hóa "tiềm năng" thành các sản phẩm và dịch vụ văn hóa có khả năng cạnh tranh cao.
Về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới, Thủ tướng đã giao nhiệm vụ cụ thể cho từng Bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố, các hiệp hội, cộng đồng doanh nghiệp trong lĩnh vực văn hoá…, trong đó Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các bộ, ngành, địa phương nghiên cứu, đề xuất xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách liên quan, trong đó có chính sách ưu đãi đầu tư, hợp tác công - tư, quản lý tài sản công, thuế, hoàn thuế giá trị gia tăng, tiếp cận tín dụng đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư vào các ngành công nghiệp văn hóa, nhất là trong những lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thủ tướng yêu cầu các cơ quan tính toán dành gói tín dụng ưu đãi (trước mắt khoảng 20-30 nghìn tỷ đồng) cho ngành công nghiệp văn hóa.
Thủ tướng cho rằng một hội nghị không thể giải quyết được tất cả các vấn đề đặt ra, nhưng tin tưởng rằng sau Hội nghị này, chúng ta sẽ vững tin hơn, có khí thế mới, động lực mới trong phát triển ngành công nghiệp văn hóa.