Ngày 2/8, tại TP. Hồ Chí Minh, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam tổ chức Tọa đàm “Xử lý nợ xấu – Thực trạng và giải pháp”.
Tham dự toạ đàm, về phía Văn phòng Chính Phủ có: bà Phạm Thúy Hạnh - Phó Vụ Trưởng Vụ Pháp Luật.
Về phía Bộ Tư Pháp có: bà Nguyễn Thị Thu Hằng - Phó Cục trưởng Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm.
Về phía Tòa án Nhân dân tối cao, có: bà Phan Thị Thu Hà - Trưởng Phòng, Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học.
Về phía Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có: ông Lê Trung Kiên - Phó Cục Trưởng Cục 4, Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng; ông Nguyễn Ngọc Duy - Trưởng Phòng Tư vấn Pháp luật - Vụ Pháp chế; ông Trịnh Quốc Hùng - Trưởng Phòng Tổng hợp, Vụ Tín dụng các ngành kinh tế.
Về phía Cục Thi hành án dân sự TP. Hồ Chí Minh có: ông Nguyễn Thanh Hà - Phó Cục Trưởng.
Về phía Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam có: ông Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký; ông Phạm Văn Phong, Ủy viên Hội đồng Hiệp hội; ông Đỗ Giang Nam - Chủ nhiệm CLB Xử lý nợ, Hội đồng Thành viên VAMC; ông Nguyễn Văn Trình - Phó Chủ nhiệm CLB Pháp chế Ngân hàng.
Về phía Ngân hàng TMCP Nam Á có: ông Hoàng Việt Cường - Phó Tổng Giám đốc; ông Hoàng Trọng Trường - Tổng Giám đốc Công ty AMC Nam A Bank.
Áp lực nợ xấu ngày càng gia tăng
Phát biểu khai mạc tọa đàm, ông Nguyễn Quốc Hùng - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho biết, do ảnh hưởng dịch COVID-19 kéo dài, tình hình kinh tế - xã hội trên toàn cầu và các nước trong khu vực vẫn còn nhiều bất ổn. Điều này kéo theo hoạt động của các tổ chức tín dụng gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là trong công tác xử lý nợ nấu.
Trước tình hình đó, ông Nguyễn Quốc Hùng cho biết, các TCTD đã tích cực triển khai nhiều biện pháp để xử lý nợ xấu, nỗ lực sử dụng nguồn lực để xử lý rủi ro, tăng cường công tác tín dụng và triển khai chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn. Tuy nhiên, trong 6 tháng đầu năm 2024, tỷ lệ nợ xấu của các TCTD tiếp tục có xu hướng gia tăng. Nợ xấu và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu còn ở mức cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với an toàn, hiệu quả hoạt động của các TCTD.
Trích dẫn báo cáo của các tổ chức tín dụng, ông Lê Trung Kiên - Phó Cục trưởng Cục 4, Cơ quan Thanh tra Giám sát Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước cho biết, tính đến cuối tháng 6/2024, nợ xấu nội bảng của toàn hệ thống tổ chức tín dụng tăng 5,77% so với cuối năm 2023. Tỷ lệ nợ xấu ở mức 4,56%, cao hơn mức 4,55% tại thời điểm cuối năm 2023 và mức 2,03% cuối năm 2022.
Tổng nợ xấu nội bảng, nợ tại Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) chưa xử lý và nợ tiềm ẩn của hệ thống các tổ chức tín dụng tính đến cuối tháng 6/2024 chiếm tỷ lệ 6,44% so với tổng dư nợ.
Mặc dù tỷ lệ này giảm so với mức 6,9% vào cuối năm 2023, nhưng lại tăng so với mức 4,21% vào cuối năm 2022 và cao hơn so với tỷ lệ nợ xấu nội bảng 4,56% tổ chức tín dụng đang thực hiện phân loại theo quy định tại Thông tư 11/2021/TT-NHNN về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Thông tin thêm về thực tiễn tranh chấp hợp đồng tín dụng tại toà án, bà Phan Thị Thu Hà - đại diện Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học, Toà án Nhân dân tối cao cho biết, các tranh chấp về kinh doanh thương mại có xu hướng tăng về số lượng theo từng năm và cả về tính chất, mức độ phức tạp lẫn giá trị tranh chấp.
“Qua số liệu thống kê cho thấy, các vụ việc kinh doanh thương mại Tòa án đã thụ lý trong thời gian qua chủ yếu phát sinh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng (tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa các tổ chức tín dụng với doanh nghiệp, hộ gia đình hoặc cá nhân có đăng ký kinh doanh vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ), tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty, giữa các thành viên công ty với nhau...”, bà Phan Thị Thu Hà nêu rõ.
Còn khoảng trống pháp lý trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, thu hồi nợ xấu
Tại tọa đàm, các diễn giả và đại biểu tham dự đều cho rằng, vướng mắc về mặt pháp lý là một trong các nguyên nhân dẫn đến hiệu quả của công tác xử lý nợ xấu chưa cao, làm hạn chế tiến độ, hiệu quả của việc xử lý nợ xấu trong ngành Ngân hàng.
Trong đó, việc Nghị quyết 42 hết hiệu lực đã tạo ra khoảng trống pháp lý, không có cơ chế cho phép TCTD thu giữ tài sản bảo đảm, chính quyền địa phương và cơ quan công an không có cơ sở pháp lý hỗ trợ các TCTD trong việc xử lý tài sản bảo đảm như trước đây.
“Khi triển khai Luật Các TCTD 2024 bước đầu xuất hiện những hạn chế, khó khăn; Một số quy định trọng tâm của Nghị quyết 42 không được luật hóa tại Luật Các TCTD, hạn chế đến quyền của các chủ thể xử lý nợ như VAMC, TCTD, các AMC. Từ đó, tác động đến phạm vi hoạt động cũng như hiệu quả của công tác xử lý nợ xấu”, ông Đỗ Giang Nam - Chủ nhiệm CLB Xử lý nợ - trăn trở.
Đồng quan điểm, bà Phạm Thuý Hạnh - Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật, Văn phòng Chính phủ cũng cho rằng, các vướng mắc về mặt pháp lý là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiệu quả của công tác xử lý nợ xấu chưa cao. Quy định của pháp luật đối với việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ còn bất cập làm hạn chế tiến độ, hiệu quả của việc xử lý nợ xấu trong ngành Ngân hàng; TCTD và VAMC không được chủ động toàn quyền xử lý tài sản bảo đảm khi khách hàng vay không trả được nợ.
“Tại các TCTD yếu kém, nợ xấu chiếm tỷ lệ cao trong trong khi hầu hết tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu có liên quan đến các vụ án trọng điểm đang trong quá trình điều tra, tố tụng, nên quá trình xử lý nợ xấu bị kéo dài. Cơ chế, chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho xử lý nợ xấu còn thiếu, chưa đồng bộ, thiếu nguồn lực và cơ chế đặc thù cho VAMC hoạt động”, bà Phạm Thuý Hạnh chỉ rõ.
Tại toạ đàm, ông Nguyễn Văn Trình, Phó Chủ nhiệm CLB Pháp chế Ngân hàng, đã trình bày những vướng mắc trong quy định pháp luật gây vướng mắc trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, thu hồi nợ xấu.
Chẳng hạn như: việc áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn, cũng như hoàn thiện các thủ tục theo yêu cầu của tòa án để áp dụng thủ tục rút gọn (đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng) do khi xảy ra nợ xấu, đa phần khách hàng trốn tránh, không hợp tác với TCTD để phối hợp xử lý, nên việc xác nhận này rất khó thực hiện. Nếu xuất hiện tình tiết mới mà các bên đương sự không thống nhất làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn thì tòa án phải ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường.
Về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm, Nghị quyết 42 quy định rõ số tiền thu được từ việc xử lý tài sản được ưu tiên thu nợ cho các TCTD trước khi thực hiện các nghĩa vụ thuế nói chung nhưng đến nay đã hết hiệu lực. Trong khi đó, Luật Các TCTD 2024 lại quy định đối với số tiền thu được từ xử lý tài sản thì "Khoản thuế, lệ phí trực tiếp liên quan đến việc chuyển nhượng tài sản bảo đảm đó gồm thuế thu nhập cá nhân, lệ phí trước bạ" được ưu tiên thanh toán trước khi thu nợ cho các TCTD.
Đồng thời, Luật Các TCTD 2024 không quy định đối với các khoản thuế khác, dẫn đến các cơ quan thuế yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thuế của bên thế chấp (thường là doanh nghiệp nợ đọng thuế với số tiền lớn) trước khi thanh toán cho TCTD…
Ngoài ra, đại diện CLB Pháp chế Ngân hàng cũng chỉ rõ những vướng mắc khác liên quan đến quy định về thu giữ tài sản bảo đảm; kê biên tài sản bảo đảm; xử lý tài sản bảo đảm là cổ phần, cổ phiếu; hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự, quy định người thứ ba ngay tình; xử lý tài sản bảo đảm là phương tiện, công cụ phạm tội trong vụ án hình sự; quyền yêu cầu định giá lại khi thi hành án; xử lý tài sản bảo đảm khi kiện phá sản doanh nghiệp; hoạt động mua bán nợ; xử lý tài sản bảo đảm là quyền tài sản pháp sinh từ hợp đồng mua bán tài sản/tài sản hình thành trong tương lai với các dự án bất động sản nghỉ dưỡng...
Ông Nguyễn Văn Trình cho biết, trong thực tiễn triển khai xử lý tài sản bảo đảm, thu hồi nợ xấu còn xảy ra các vướng mắc liên quan đến xác minh nơi cư trú của bị đơn; phối hợp thực hiện kê biên, cưỡng chế tài sản bảo đảm; tạm đình chỉ giải quyết vụ án do khách hàng liên quan đến vụ án hình sự khác; khách hàng khiếu nại nhằm kéo dài hoặc cố ý gián đoạn vụ việc thi hành án; xử lý tài sản bảo đảm là đất nông nghiệp đã hết thời hạn sử dụng; xử lý tài sản gắn liền với đất, tài sản khác trên đất mà theo hiện trạng thực tế khác biệt với hồ sơ pháp lý khi nhận thế chấp.
Đại diện các tổ chức tín dụng tham dự tọa đàm như Nam A Bank, Vietcombank, HDBank, OCB, BaoViet Bank cũng đã nêu cụ thể một số vướng mắc gặp phải như quy định chồng chéo liên quan đến nắm giữ tài sản bảo đảm; thứ tự tài sản bảo đảm được xử lý, bao gồm thuế thu nhập cá nhân; hoá đơn, chứng từ hợp lệ; yêu cầu định giá tài sản; tài sản bảo đảm thay đổi hiện trạng so với giấy chứng nhận….
Bên cạnh việc lắng nghe trao đổi về những khó khăn, vướng mắc đại biểu tham dự toạ đàm đến từ Công ty TNHH Mua Ban Nợ Welcome (Welcome DTC) đã có những chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn rất đáng chú ý về xử lý nợ xấu và quy định pháp lý về mua bán nợ, bán đấu giá tài sản bảo đảm tại thị trường Hàn Quốc để tham khảo.
Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hành lang pháp lý
Trao đổi tại toạ đàm, bà Nguyễn Thị Thu Hằng - Phó Cục trưởng Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm nhấn mạnh, xử lý tài sản bảo đảm có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo khả năng thu hồi vốn của chủ nợ, qua đó góp phần giảm tỷ lệ nợ xấu, đảm bảo an toàn trong hoạt động tài trợ vốn cho các chủ nợ, bao gồm cả chủ nợ là các tổ chức tín dụng.
Đại diện Cục Đăng ký quốc gia khẳng định, khung pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm luôn được quan tâm hoàn thiện, trong đó có thể kể đến các văn bản được coi là nền tảng của việc xử lý tài sản bảo đảm như Bộ luật Dân sự năm 2015, Nghị định số 21/2021/NĐ-CP, Luật Các TCTD năm 2024.... Những văn bản này đã góp phần tạo lập cơ chế pháp lý thuận lợi hơn cho bên nhận bảo đảm trong việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ.
“Bên cạnh kết quả đạt được, khung pháp lý về xử lý tài sản bảo đảm, bao gồm cả xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, cũng như thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm vẫn còn tồn tại một số vướng mắc nhất định. Do vậy, cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện để đảm bảo hơn nữa quyền xử lý tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm; qua đó khuyến khích và tăng cường hơn nữa hoạt động cấp vốn để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước”, bà Nguyễn Thị Thu Hằng nhấn mạnh.
Để góp phần tăng thêm tính chủ động, cũng như hỗ trợ các tổ chức tín dụng trong xử lý nợ xấu, ông Đỗ Giang Nam kiến nghị sửa Thông tư 19/2013/TT-NHNN về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của VAMC theo hướng trao quyền quyết định cho Hội đồng thành viên VAMC.
Cụ thể, VAMC được phép thực hiện hoạt động hỗ trợ tài chính cho khách hàng vay, cũng như đầu tư, sửa chữa, nâng cấp, khai thác, sử dụng, cho thuê tài sản đảm bảo đã được VAMC thu nợ theo mức quy định tại Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, thay vì phải làm hồ sơ trình Ngân hàng Nhà nước phê duyệt.
Đồng thời, cho phép VAMC được tổ chức bán đấu giá khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng khi có đề nghị.
Để thúc đẩy thị trường mua bán nợ, ông Nguyễn Văn Trình đề xuất Bộ Tài chính sớm hoàn thiện quy định về xây dựng thị trường mua bán nợ lành mạnh, thúc đẩy các chủ thể tham gia thị trường mua bán nợ; xây dựng bộ tiêu chí, công thức định giá nợ xấu; quy định để việc thành lập, hoạt động của các tổ chức có chức năng thẩm định giá khoản nợ xấu; xây dựng chính sách ưu đãi miễn/giảm thuế đối với hoạt động mua bán nợ xấu của các tổ chức tín dụng; tổ chức quản lý giám sát hoạt động của thị trường mua bán nợ.
Về phía Ngân hàng Nhà nước, ông Lê Trung Kiên cho biết, sẽ tiếp tục tăng cường quản lý nhà nước đối với các tổ chức tín dụng thông qua thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động cấp tín dụng, chất lượng tín dụng, tình hình xử lý nợ xấu, nhằm phòng ngừa rủi ro nợ xấu.
Đồng thời, tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn các TCTD xây dựng và triển khai mạnh mẽ phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; trong đó, bao gồm các giải pháp để tiếp tục kiểm soát và hạn chế nợ xấu mới phát sinh, nâng cao chất lượng tín dụng; theo dõi việc thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ của các TCTD theo quy định tại Thông tư số 02/2023/TT-NHNN (đã được kéo dài thời gian áp dụng đến ngày 31/12/2024), kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai.
Bà Phan Thị Thu Hà đề xuất, cần tạo hành lang pháp lý thúc đẩy việc bên nhận bảo đảm được quyền tiếp cận tài sản bảo đảm để xử lý nhanh chóng, hợp pháp theo hướng, bên nhận bảo đảm có quyền tự mình thu hồi tài sản bảo đảm dựa trên nguyên lý “không vi phạm điều cấm, trái đạo đức xã hội”; bên cạnh đó, cũng cần thiết phải quy định đầy đủ các điều kiện, trình tự mà bên nhận bảo đảm phải đáp ứng trong quá trình thu hồi tài sản bảo đảm để loại bỏ nguy cơ phát sinh các tiêu cực, vi phạm pháp luật, gây ra những hệ lụy về mặt xã hội….
Kết luận toạ đàm, ông Nguyễn Quốc Hùng đánh giá cao các nội dung được trình bày tại toạ đàm. Đồng thời, đề nghị đại diện các TCTD tích cực nghiên cứu, tham gia ý kiến, phản ánh đầy đủ các vướng mắc xảy ra trong thực tiễn tại đơn vị mình và đưa ra các đề xuất xác đáng gửi văn bản về Hiệp hội Ngân hàng, nhằm tiếp tục tổng hợp, kiến nghị lên các cơ quan quản lý, hoàn thiện, bổ sung khung pháp lý phù hợp với thực tiễn…