Trong báo cáo cập nhật kinh tế vĩ mô Việt Nam mới phát hành, Ngân hàng thế giới (WB) nhận định, nền kinh tế trong nước đang phải đối mặt với những cơn gió ngược bên ngoài khi nhu cầu bên ngoài suy yếu tiếp tục tạo áp lực giảm xuất khẩu, dẫn đến sản xuất công nghiệp suy yếu.
Công nghiệp cải thiện nhẹ nhưng vẫn yếu
Công nghiệp cải thiện nhẹ nhưng vẫn yếu Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng nhẹ 0,5% (so với cùng kỳ) trong tháng 4, cải thiện so với mức giảm 2,0% (so với cùng kỳ) trong tháng 3. Sản xuất dệt may, giày dép và sản phẩm da, điện tử, máy tính, điện thoại di động (bao gồm cả linh kiện), phương tiện có động cơ và thiết bị vận tải tiếp tục giảm trong tháng 4 cũng như trong 4 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm 2022, thể hiện sự suy yếu hơn xuất khẩu dự kiến.
Sản xuất công nghiệp hàng tiêu dùng trong nước, bao gồm thực phẩm và đồ uống cũng như xăng dầu, tiếp tục mở rộng, phần nào phản ánh sự tăng trưởng của nhu cầu nội địa trong tháng 4 (đại diện bởi doanh số bán lẻ). Chỉ số PMI của Việt Nam đã giảm xuống 46,7 vào tháng 4/2023 từ mức 47,7 vào tháng 3, cho thấy các điều kiện kinh doanh dự kiến tiếp tục chưa cải thiện trong thời gian tới.
Tăng trưởng doanh số bán lẻ ở mức độ vừa phải khi hiệu ứng cơ sở thấp sau COVID năm 2022 giảm dần
Tăng trưởng doanh số bán lẻ ở mức độ vừa phải khi hiệu ứng cơ sở thấp sau COVID-19 năm 2022 giảm dần Doanh số bán lẻ ghi nhận tốc độ tăng trưởng 11,5% (so với cùng kỳ) trong tháng 4, ngang bằng so với tháng 3/2023 (11,5% so với cùng kỳ) và so với tốc độ tăng trưởng trước COVID-19. Chiếm gần 80% tổng doanh số bán lẻ, doanh số bán hàng hóa giảm từ 11,3% (so cùng kỳ) trong tháng 3 xuống 9,7% (so cùng kỳ) trong tháng 4.
Trong khi đó, doanh số bán dịch vụ tiếp tục ghi nhận tốc độ tăng trưởng mạnh 19,2% (so cùng kỳ năm trước) trong tháng 4 (tăng trưởng 5,6 % so với tháng trước), phần lớn được thúc đẩy bởi sự mở rộng của các dịch vụ du lịch (86% so với cùng kỳ) và dịch vụ lưu trú và nhà hàng (21,1% so với cùng kỳ). Việt Nam đón khoảng một triệu du khách quốc tế trong tháng 4, tăng 10% so với tháng 3. Lượng khách quốc tế 4 tháng đầu năm 2023 đạt 3,7 triệu lượt nhưng vẫn thấp hơn 40% so với trước dịch (2019).
Thương mại hàng hóa quốc tế tiếp tục thu hẹp
Xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa giảm lần lượt là 17,1% (so cùng kỳ) và 20,5% (so với cùng kỳ) vào tháng 4/2023. Sự sụt giảm trong xuất khẩu được chủ yếu xuất phát từ sự suy giảm đáng kể trong xuất khẩu các mặt hàng chủ chốt trong tháng 4, bao gồm điện thoại thông minh (-31% so với cùng kỳ), máy tính (-8% so với cùng kỳ), máy móc (-14% so với cùng kỳ), dệt may (-24% so với cùng kỳ), và giày dép (-10% so với cùng kỳ).
Phản ánh sự sụt giảm trong xuất khẩu, nhập khẩu nguyên liệu đầu vào sản xuất (chiếm khoảng 94% tổng kim ngạch nhập khẩu) đã giảm mạnh trong tháng 4 so với một năm trước đó, bao gồm thiết bị điện tử và linh kiện máy tính (-19,6%), điện thoại thông minh (-64,4%), và máy móc (-15,3%). Điều này phản ánh sự suy yếu nhu cầu của nền kinh tế Hoa Kỳ và EU, hai thị trường mà xuất khẩu giảm tương ứng 22,1% và 14,1% (so với cùng kỳ) trong 4 tháng đầu năm 2023.
Trong khi dòng vốn FDI ổn định, những bất ổn toàn cầu tiếp tục ảnh hưởng đến niềm tin của nhà đầu tư
Cam kết FDI đạt 3,4 tỷ USD vào tháng 4 năm 2023, tăng 46% so với tháng 3. Tuy nhiên, vốn FDI cam kết lũy kế 4 tháng đầu năm 2023 chỉ đạt 8,8 tỷ USD, thấp hơn 17,9% so với cùng kỳ năm 2022. Vốn FDI giải ngân trong tháng 4/2023 đạt 1,5 tỷ USD, tương đương một năm trước đó. Trong khi đó, vốn FDI giải ngân lũy kế từ tháng 1–tháng 4/2023 đạt 5,8 tỷ USD, tương đương với cùng kỳ năm 2022. Cam kết và giải ngân vốn FDI chững lại trong 4 tháng đầu năm 2023 có thể phản ánh sự thận trọng của nhà đầu tư do những bất ổn toàn cầu gây ra.
Lạm phát chỉ số giá và lạm phát cơ bản tiếp tục giảm nhẹ
Lạm phát chỉ số giá tiêu dùng (CPI) giảm từ 3,4% trong tháng 3 xuống 2,8% trong tháng 4. Lương thực và thực phẩm, cũng như nhà ở và vật liệu xây dựng là những nhân tố chính gây ra lạm phát CPI, tăng tương ứng 3,6% (so cùng kỳ) và 5,2% (so cùng kỳ) trong tháng 4. Lạm phát cơ bản, không bao gồm lương thực, năng lượng và các mặt hàng bị kiểm soát giá (dịch vụ giáo dục và y tế) điều chỉnh giảm từ 4,9% trong tháng 3 xuống 4,6% trong tháng 4, vẫn cao hơn mục tiêu chính sách 4%.
Trong khi lạm phát tiếp tục có xu hướng giảm trong tháng 4, việc tăng giá điện 3% gần đây và kế hoạch tăng lương khu vực công có thể tác động đến lạm phát trong nửa cuối năm.
Nền kinh tế đang phải đối mặt với những "cơn gió ngược" bên ngoài khi nhu cầu bên ngoài suy yếu tiếp tục tạo áp lực giảm xuất khẩu, dẫn đến sản xuất công nghiệp suy yếu. Mặc dù tiêu dùng trong nước vẫn mạnh nhưng tăng trưởng tín dụng chậm lại, phản ánh nhu cầu tín dụng yếu.
“Triển vọng thắt chặt hơn nữa các điều kiện tài chính toàn cầu đòi hỏi việc quản lý ngoại hối phải linh hoạt để thích ứng với các điều kiện bên ngoài. Đẩy nhanh giải ngân đầu tư công có thể hỗ trợ tổng cầu và tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn, đồng thời đảm bảo đầu tư vào nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng xanh và có khả năng phục hồi để giúp thúc đẩy phát triển kinh tế trong dài hạn”, WB khuyến nghị.