Vấn đề - Nhận định

2025 – Sẵn sàng cho kỷ nguyên mới

Ngô Đăng Khoa (*)- Vũ Bình Minh, CFA (**) 21/12/2024 08:00

Mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 được Quốc hội giao cho Chính phủ là 6,5-7%, phấn đấu 7-7,5%. Trên thực tế, có cơ sở để đặt ra kỳ vọng này, có thể kể đến như: Ngành sản xuất đã thoát khỏi khó khăn, xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ ở mức hai chữ số, diễn biến giá cả thuận lợi...

Nhận định trên vừa được Nhóm chuyên gia thuộc Khối ngoại hối, thị trường vốn và Dịch vụ chứng khoán của Ngân hàng HSBC Việt Nam đưa ra trong bài viết nhìn lại kinh tế Việt Nam năm 2024 và triển vọng năm 2025 mang tên: "2024 - những nốt thăng trầm".

Trong bài viết, nhóm chuyên gia của HSBC đánh giá, năm 2024 khởi đầu với rất nhiều niềm tin về sự phục hồi và hi vọng rằng bức tranh kinh tế toàn cầu sẽ khởi sắc hơn với viễn cảnh Ngân hàng Dự trữ liên bang Mỹ (FED) sẽ sớm bắt đầu chu kỳ hạ lãi suất mạnh mẽ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy kinh tế thế giới đã trải qua một năm với rất nhiều bất ổn, cùng những biến động khó lường. Căng thẳng địa chính trị kéo dài, xu hướng toàn cầu hoá đảo ngược, các kịch bản xoay quanh cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ cùng nhiều sự kiện kinh tế - chính trị khác đã khiến bức tranh kinh tế vốn đã phân hoá lại trở nên ngày càng phức tạp hơn.

Ở trong nước, với nền kinh tế mở và hội nhập đa phương diện, không khó để hình dung Việt Nam cũng trải qua một năm kinh tế với nhiều nốt thăng trầm. Sau khởi đầu khó khăn trong quý I/2024, bức tranh kinh tế trong nước đa phần đã tích cực hơn khi đà phục hồi dần vững chắc qua các tháng của năm, nhanh chóng đưa Việt Nam trở lại như một ngôi sao tăng trưởng trong khối ASEAN.

untitled-1.jpg
Ông Ngô Đăng Khoa, Giám đốc Khối ngoại hối, thị trường vốn và Dịch vụ chứng khoán HSBC Việt Nam (trái) - Ông Vũ Bình Minh, CFA, Giám đốc Kinh doanh trái phiếu và sản phẩm lãi suất, Khối thị trường vốn và dịch vụ chứng khoán (phải)

2024 - những nốt thăng trầm

Cụ thể, tăng trưởng được cải thiện và bất ngờ tăng lên lần lượt 6,9% trong quý II/2024 và 7,4% trong quý III/2024 so với cùng kỳ năm trước. Sự phục hồi đã bắt đầu mở rộng ra các lĩnh vực khác không chỉ ở ngành điện tử tiêu dùng, mặc dù tiêu dùng trong nước vẫn chưa quá tích cực bất chấp đã chứng kiến ​​những cải thiện gia tăng.

Đã có những lo ngại rằng tác động của cơn bão số 3 (bão Yagi) - cơn bão mạnh nhất mà Việt Nam phải đối mặt trong 70 năm qua, sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng. Tuy nhiên, tác động chủ yếu tập trung vào ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản. Trong khi đó, sản xuất và thương mại vẫn kiên cường và tiếp tục dẫn đầu quá trình phục hồi.

Cụ thể hơn, đà tăng tốc của tiến trình hồi phục kinh tế trong nửa sau của năm nay tiếp tục được dẫn dắt bởi sản xuất, với mức tăng trưởng của chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP) tính chung 11 tháng năm 2024 tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước. Kết quả này cũng được củng cố bởi dữ liệu thương mại tích cực, với tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hoá tính chung 11/2024 tăng 15,4% so với cùng kỳ năm trước. Điều đáng khích lệ là sự phục hồi thương mại ban đầu tập trung vào điện tử đang cho thấy dấu hiệu mở rộng, với xuất khẩu hàng dệt may và giày dép trong quý III, tăng 16,7% so với cùng kỳ năm 2023.

Về lĩnh vực vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI), Việt Nam tiếp tục thu hút dòng vốn nước ngoài khi triển vọng cơ bản vẫn tích cực. Mặc dù tăng trưởng FDI mới đăng ký chậm lại trong quý III/2024, các lĩnh vực ngoài sản xuất như bất động sản và năng lượng đã chứng kiến ​​sự gia tăng đầu tư.

Vốn FDI thực hiện tại Việt Nam 11 tháng năm 2024 ước đạt 21,68 tỷ USD, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước. Đây cũng là năm thứ 3 liên tiếp Việt Nam đạt mức giải ngân FDI trên 20 tỷ USD. Các khoản đầu tư nội khối ASEAN đang dẫn đầu, chiếm 40% dòng vốn đổ vào cho đến nay. Các doanh nghiệp FDI hiện hữu tiếp tục đưa ra các cam kết về đầu tư thêm vốn dự án, hỗ trợ năng lực sản xuất đang mở rộng của Việt Nam.

Đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực bất động sản cũng đã tăng trong những tháng gần đây. Điều này có thể được hỗ trợ bởi Luật Đất đai sửa đổi có hiệu lực vào tháng 8/2024, chuẩn hoá một số quy định để thúc đẩy nhu cầu. Nhìn về phía trước, dòng vốn FDI vào lĩnh vực sản xuất cũng có khả năng vẫn tiếp tục tăng trưởng, với chuyến thăm gần đây của Tổng Bí thư Tô Lâm tới Hoa Kỳ đã mở ra ý định đầu tư từ nhiều công ty, điển hình như Meta, Google, NVIDIA...

Ở phía ngược lại, kinh tế Việt Nam vẫn còn những nốt trầm đáng chú ý. Theo thống kê, Việt Nam là nền kinh tế chịu ảnh hưởng nhiều nhất trong các nước ASEAN từ ​​nhu cầu tiêu dùng của Mỹ. Với việc các chỉ số liên quan tiêu dùng của Mỹ cao hơn các dự báo phần nào giải thích tại sao xuất khẩu sản xuất của Việt Nam vẫn là ngành có khả năng phục hồi tích cực nhất trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, mặt trái của điều này là Việt Nam sẽ dễ bị tổn thương nhất trước sự chậm lại trong chi tiêu của hộ gia đình, cũng như sự thay đổi trong chính sách thương mại của Mỹ.

Bên cạnh đó, một trong những trụ cột còn lại là tiêu dùng bán lẻ trong nước đang phục hồi chậm hơn dự kiến ​​ban đầu, với mức tăng trưởng doanh số bán lẻ vẫn thấp hơn xu hướng trước đại dịch và sự phục hồi chưa mấy rõ rệt. Lĩnh vực dịch vụ tiếp tục hỗ trợ doanh số bán lẻ khi số lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong tháng 11/2024 tăng cao, đạt 1,7 triệu lượt người, đưa mức chung 11 tháng năm nay đạt hơn 15,8 triệu lượt khách, tăng 41% so với cùng kỳ năm trước.

Điểm đáng khích lệ là Chính phủ đã đưa ra các biện pháp hỗ trợ nhiều lĩnh vực trong nước. Việc cắt giảm thuế môi trường đối với nhiên liệu và cắt giảm thuế giá trị gia tăng đối với một số hàng hóa và dịch vụ sẽ kéo dài đến cuối năm 2024, trong khi Luật Đất đai sửa đổi có hiệu lực từ tháng 8 được kỳ vọng sẽ góp phần củng cố triển vọng cho thị trường bất động sản. Chính sách tài khóa và tiền tệ có khả năng sẽ vẫn mang tính thích ứng để giúp tăng tốc quá trình phục hồi kinh tế, nhằm đưa Việt Nam đạt được những mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà Chính phủ đã đề ra cho năm nay, tạo tiền đề vững chắc cho năm sắp tới.

Về thị trường tiền tệ, dựa vào diễn biến giá thuận lợi hơn đặc biệt là giá dầu và giá hàng hoá, lạm phát đã cho thấy sự điều tiết đáng kể trong những tháng gần đây. Trong khi các rủi ro như gián đoạn nguồn cung từ bão Yagi và xung đột địa chính trị vẫn hiện hữu, lạm phát thấp hơn nhiều so với mức trần mục tiêu 4,5% của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) sẽ cho phép NHNN duy trì lập trường điều hành theo hướng hỗ trợ và tập trung vào việc hỗ trợ tăng trưởng, từ đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tiếp tục kiềm chế lạm phát.

Về tỷ giá, cặp tỷ giá USD-VND tiếp tục chứng kiến một năm với rất nhiều biến động khó lường. Cũng như nhiều loại tiền tệ khác trong khu vực, ngoại tệ của các quốc gia trong khu vực trong đó có Việt Nam đang đứng trước nhiều biến số khó lường trong thời gian gần đây do những nhiễu động trước thềm bầu cử Tổng thống Mỹ, các gói kích thích kinh tế của Trung Quốc và các căng thẳng địa chính trị khác.

Để tóm tắt diễn biến tỷ giá năm nay, có thể chia làm 3 giai đoạn tương ứng với 3 quý gần nhất. Trong đầu quý II/2024, tỷ giá USD/VND đã tăng từ mức 24.650 VND/USD lên mức cao nhất năm 25.460 VND/USD chỉ trong vỏn vẹn gần 2 tháng, tương đương mức mất giá hơn 3%. Trong giai đoạn đó, kỳ vọng cắt giảm lãi suất của FED giảm, khiến khác biệt về chính sách điều hành trở nên rõ nét và đưa chênh lệch lãi suất VND – USD tăng cao, dữ liệu tiếp tục vượt trội ở Mỹ và rủi ro địa chính trị đã hỗ trợ đồng bạc xanh trong suốt thời gian đó. Để hỗ trợ thị trường, NHNN đã phải can thiệp thông qua nghiệp vụ bán USD từ dự trữ ngoại hối cũng như phát hành tín phiếu ngắn hạn nhằm giảm đà tăng của tỷ giá.

Bước sang quý III/2024, xu hướng đảo chiều khi USD/VND giảm giá mạnh trở lại về mức 24.600 VND/USD, tương đương mức mất giá chỉ còn 1,3% tại thời điểm cuối tháng 9/2024. Nhờ vào các biện pháp hỗ trợ thị trường từ cơ quan điều hành, cũng như việc FED hạ lãi suất lần đầu tiên đưa Chỉ số Đồng Đô la Mỹ (DXY) hạ nhiệt, đồng thời góp phần giúp thu hẹp chênh lệch lãi suất VND-USD.

Tuy nhiên, bước sang quý IV/2024, câu chuyện về áp lực tỷ giá tăng quay trở lại. Tính riêng trong tháng 10 vừa qua, các loại tiền tệ châu Á trung bình đã giảm hơn một nửa mức tăng trong quý III so với đồng USD trong bối cảnh đồng bạc xanh nhanh chóng phục hồi lại sức mạnh. Quan sát một cách tổng thể, một số loại ngoại tệ chịu ảnh hưởng tiêu cực hơn khi dòng vốn chảy ra – ví dụ, cặp USD-INR đạt mức cao kỷ lục mới, trong khi cặp USD-KRW hiện đang ở gần mức cao nhất trong năm.

Tương tự, tỷ giá USD/VND tiếp tục tăng nhanh và mạnh quay trở lại gần mức đỉnh cũ của năm nay là 25.450 VND/USD. Những biến số trước thềm bầu cử Tổng thống Mỹ cho tới khi ông Donald Trump đắc cử, cùng những số liệu kinh tế khả quan, đặc biệt liên quan tới việc làm của Mỹ thời gian qua thổi bùng lên đà tăng giá chỉ số USD, cũng như hạ đi kỳ vọng về cường độ giảm lãi suất của FED trong chu kỳ mới này. Tương tự như những giai đoạn trước, NHNN đã áp dụng chính sách điều hành tỷ giá linh hoạt thông qua việc đặt giá bán USD hỗ trợ thị trường tại mức 25.450 VND/USD, đồng thời tiếp tục giới thiệu lại công cụ phát hành tín phiếu nhằm điều tiết nguồn vốn trên thị trường liên ngân hàng, qua đó gián tiếp góp phần củng cố niềm tin thị trường và giảm áp lực lên tỷ giá. Vào thời điểm này ngay cả khi sự kiện bầu cử Tổng thống Mỹ đã qua, vẫn là rất khó khăn để đặt ra được một kịch bản rõ nét nào về diễn biến của tỷ giá trong thời gian sắp tới.

Về lãi suất, trong bối cảnh Chính phủ quyết tâm đạt được các chỉ tiêu tăng trưởng đã đề ra trong năm nay, NHNN đứng trước nhiệm vụ tương đối nặng nề khi điều hành chính sách tiền tệ theo hướng hỗ trợ tăng trưởng thông qua phấn đấu giảm lãi suất cho vay, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên, khi tỷ giá đứng trước áp lực tăng, chính sách tiền tệ của Mỹ và các quốc gia vẫn chưa chuyển hướng rõ rệt đặt ra rất nhiều thách thức để hoàn thành nhiệm vụ này.

Trên thực tế, mặt bằng lãi suất trên thị trường liên ngân hàng liên tục đứng trước áp lực tăng. Kể từ đầu tháng 10 đến nay, NHNN cùng lúc phải áp dụng linh hoạt các công cụ điều hành thanh khoản để giải quyết vấn đề ổn định tỷ giá thông qua nghiệp vụ phát hành tín phiếu và đồng thời đảm bảo thanh khoản cho hệ thống thông qua kênh hoạt động thị trường mở.

2025 – sẵn sàng cho kỷ nguyên mới

Mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 được Quốc hội giao cho Chính phủ là 6,5-7%, phấn đấu 7-7,5%, cao hơn kế hoạch và tương đương mức phấn đấu thực hiện năm nay của Chính phủ, là trên 7%, phản ánh kỳ vọng về sự cải thiện trong hoạt động kinh tế trong năm sau.

Trên thực tế, có cơ sở để đặt ra kỳ vọng này. Ngành sản xuất đã thoát khỏi khó khăn của năm ngoái một cách mạnh mẽ. Điều này đã hỗ trợ tăng trưởng xuất khẩu mạnh mẽ ở mức hai chữ số, với mức tăng trưởng lan toả ra đồng đều hơn ở các lĩnh vực như sản phẩm nông nghiệp. Tiếp nối đà hồi phục mạnh trong quý III, nhóm Nghiên cứu Toàn cầu HSBC nâng dự báo tăng trưởng GDP năm 2024 lên 7,0% từ mức 6,5%, trong khi tiếp tục dự báo tăng trưởng GDP năm 2025 ở mức 6,5%.

Về chỉ tiêu lạm phát, diễn biến giá cả đang chuyển biến thuận lợi hơn từ nửa sau của năm nay. Áp lực đối với một số sản phẩm nông nghiệp dự kiến ​​sẽ giảm bớt khi thời tiết chuyển từ El Niño sang La Niña mang lại điều kiện thu hoạch thuận lợi hơn. Cân nhắc tất cả những điều này, nhóm Nghiên cứu Toàn cầu HSBC duy trì dự báo lạm phát ở mức 3,6% vào năm 2024, thấp hơn nhiều so với mức trần mục tiêu 4,5% của NHNN. Đối với năm 2025, nhóm Nghiên cứu Ngân hàng HSBC duy trì dự báo lạm phát ở mức 3,0%.

Tuy nhiên, không thể không nhắc tới những rủi ro được dự báo cho năm sau. Ngoài giá năng lượng toàn cầu, Việt Nam cũng dễ bị tổn thương trước các cú sốc lương thực, ví dụ, giá thịt lợn đã tăng cao do nguồn cung thịt lợn bị ảnh hưởng bởi dịch tả lợn châu Phi.

Bên cạnh đó, liệu nhu cầu đối với hàng hóa có cải thiện hơn nữa hay không sẽ là chìa khóa để xác định sức mạnh phục hồi của Việt Nam, vì các thị trường phương Tây chiếm gần một nửa lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam. Do đó, cần phải theo dõi chặt chẽ quỹ đạo và tốc độ chi tiêu của người tiêu dùng ở phương Tây.

Rõ ràng, việc Tổng thống đắc cử Donald Trump lên nắm quyền cùng việc đảng Cộng Hoà chiếm đa số ở lưỡng viện Hoa Kỳ, sẽ là những nhân tố ảnh hưởng tới bức tranh thương mại và kinh tế toàn cầu trong thời gian sắp tới. Dù vẫn còn quá sớm để đánh giá cụ thể những chính sách của chính quyền Trump, tuy nhiên, bất kể chính sách nào cũng sẽ có ảnh hưởng tới ASEAN, bao gồm Việt Nam, qua các hình thức khác nhau.

Bên cạnh các tác động từ chính sách điều hành của FED, diễn biến của đồng USD trên thị trường quốc tế cũng là một những yếu tố cân nhắc cho xu hướng tỷ giá sắp tới. Trong khi đó, với sự phục hồi vẫn chưa đồng đều cùng với mục tiêu tăng trưởng năm sau duy trì ở mức cao, Nhóm Nghiên cứu Toàn cầu HSBC kỳ vọng NHNN sẽ duy trì chính sách tiền tệ linh hoạt và giữ nguyên lãi suất điều hành ở mức 4,5% cho đến cuối năm 2025.

Chuyển đổi kép – động lực cho tăng trưởng

“Chuyển đổi kép – chuyển đổi xanh và chuyển đổi số” đang trở thành xu hướng phát triển chiến lược của nhiều quốc gia, giúp họ hướng đến đồng thời các mục tiêu phát triển bền vững và số hóa, khai thác tối đa lợi ích từ quá trình chuyển đổi kép này. Chẳng hạn như Trung Quốc, nền kinh tế số lớn nhất thế giới, đã triển khai sáng kiến “Dữ liệu miền Đông, điện toán miền Tây” nhằm dịch chuyển các trung tâm dữ liệu từ khu vực miền Đông vốn hạn chế về tài nguyên đất đai và năng lượng sang khu vực miền Tây đất nước nhằm tận dụng điều kiện thời tiết mát hơn, năng lượng sạch và các nguồn tài nguyên với chi phí hiệu quả.

Việt Nam đang nổi lên như một quốc gia năng động bậc nhất châu Á cũng như thế giới, cũng nhanh chóng nắm bắt xu thế này, lấy chuyển đổi số và chuyển đổi xanh làm động lực quan trọng để phát triển. Chúng ta có thể nhìn thấy nhiều nỗ lực đa chiều của Chính phủ trong việc bắt nhịp chuyển đổi kép. Chẳng hạn, Việt Nam đã có Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 và Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050. Năm 2025 sẽ là một năm bản lề bởi Việt Nam phấn đấu đạt được nhiều mục tiêu quan trọng trong năm tới, chẳng hạn như kinh tế số sẽ chiếm 25% GDP và tỷ trọng tín dụng xanh trong nền kinh tế đạt 10%.

Hưởng ứng những nỗ lực này, các doanh nghiệp đang tiến hành thay đổi tổ chức và triển khai ứng dụng công nghệ ở quy mô lớn. Tính đến năm 2023, khoảng 47% số doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu thực hiện các bước chuyển đổi số ở các mức độ khác nhau, theo Cục Phát triển doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Ðầu tư). Các doanh nghiệp cũng đã bắt đầu nghiên cứu kế hoạch chuyển đổi xanh. Theo khảo sát năm 2022 của PwC, 40% doanh nghiệp đã có kế hoạch và đặt ra cam kết ESG. 48,7% doanh nghiệp nói rằng cho rằng rằng giảm phát thải, chuyển đổi xanh là cần thiết, theo một khảo sát do Ban phát triển kinh tế tư nhân công bố năm 2024.

Thực tế, Việt Nam có những thuận lợi nhất định để triển khai chuyển đổi kép. Thứ nhất, những yếu tố nhân khẩu học như dân số 100 triệu với tỷ lệ người trong độ tuổi lao động gần 70%, gần 80% dân số sử dụng internet, số lượng người sở hữu điện thoại thông minh tăng hơn gấp đôi so với thập kỷ trước… đã góp phần mở ra tiềm năng lớn về tiêu dùng số cho Việt Nam. Theo báo cáo e-Conomy SEA 2024, Việt Nam là một trong nền kinh tế số phát triển nhanh nhất ASEAN, với tốc độ tăng trưởng ấn tượng là 16%. Xét về tổng giá trị hàng hóa giao dịch (gross merchandise value), Việt Nam có tiềm năng trở thành nền kinh tế số lớn thứ hai vào năm 2030.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng là một quốc gia có tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo. Là nước có điều kiện tự nhiên phù hợp nhất Đông Nam Á để phát triển điện gió và năng lượng mặt trời, Việt Nam đứng thứ hai trong số các quốc gia đang phát triển về thu hút FDI vào năng lượng tái tạo.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức. Trước hết, làm thế nào để nâng cao trình độ hiểu biết về chuyển đổi số của Việt Nam vẫn là ưu tiên hàng đầu. Đáng khích lệ là Chương trình chuyển đổi số quốc gia là một ví dụ cho thấy những nỗ lực của Chính phủ tìm cách đóng vai trò tích cực để tạo điều kiện cho quá trình chuyển đổi số của nền kinh tế. Nhìn chung, số hóa mang lại cả cơ hội và thách thức cho Việt Nam. Để tận dụng nhân khẩu học thuận lợi và đạt được tham vọng số của mình, các khoản đầu tư cần được chuyển hướng không chỉ vào các lĩnh vực mới như trí tuệ nhân tạo (AI) mà còn vào các lĩnh vực nền tảng như giáo dục số và cơ sở hạ tầng truyền thống.

Bên cạnh đó, cả hai xu hướng chuyển đổi số và chuyển đổi xanh đều đòi hỏi mức đầu tư khổng lồ. Vốn từ ngân sách nhà nước dự kiến cho ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam chỉ đáp ứng được khoảng 130 tỷ USD, chưa đến một nửa vốn đầu tư cần thiết. Chi phí đầu tư là thách thức hàng đầu trong chuyển đổi số, theo 60,1% doanh nghiệp tham gia khảo sát của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và USAID. Do đó, ngân hàng toàn cầu như HSBC có vai trò tạo điều kiện khơi thông dòng chảy vốn, kết nối nhà đầu tư, cung cấp cho khách hàng kiến thức chuyên môn liên quan và dẫn vốn đi đúng hướng.

Một điểm quan trọng nữa trong năm sau chính là cần tiếp tục tập trung đầu tư cho hạ tầng, vì đây là một trong nền tảng quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và thu hút vốn FDI chất lượng vào Việt Nam. Chính phủ đang cho thấy một thái độ rất quyết liệt trong thúc đẩy đầu tư công, tập trung vào nhiều dự án hạ tầng chiến lược kết nối các trung tâm kinh tế. Đây là sẽ một bệ phóng quan trọng đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình.

(*) Giám đốc Khối ngoại hối, thị trường vốn và Dịch vụ chứng khoán, HSBC Việt Nam

(**) Giám đốc Kinh doanh Trái phiếu và sản phẩm lãi suất, Khối Thị trường vốn và dịch vụ Chứng khoán

Đọc tiếp
(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
2025 – Sẵn sàng cho kỷ nguyên mới
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO