Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 5, sáng ngày 7/6, Quốc hội khóa XV họp phiên toàn thể tại hội trường tiếp tục chất vấn nhóm vấn đề thứ hai thuộc lĩnh vực dân tộc và chất vấn nhóm vấn đề thứ ba thuộc lĩnh vực khoa học và công nghệ.
Làm rõ tính thực tiễn của các đề tài nghiên cứu khoa học
Phát biểu tại phiên chất vấn, đại biểu Lê Thanh Vân – Đoàn ĐBQH tỉnh Cà Mau đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến phát triển khoa học, công nghệ và đề nghị Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ trả lời.
“Trong năm qua, số đề tài nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà nước có bao nhiêu đề tài được đưa vào ứng dụng? Trong số đó có bao nhiêu đề tài mang lại kết quả thiết thực?. Bên cạnh đó, đâu là điểm “kích nổ” về chính sách để Việt Nam bứt phá về công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý nhà nước, phát triển kinh tế và bảo vệ quốc phòng, an ninh của Tổ quốc?”, đại biểu Lê Thanh Vân đặt câu hỏi chất vấn.
Cũng liên quan đến các đề tài khoa học, đại biểu Đặng Thị Bảo Trinh - Đoàn ĐBQH tỉnh Quang Nam đề nghị, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt làm rõ trách nhiệm và giải pháp đối với thực trạng tính ứng dụng của nhiều đề tài khoa học còn thấp, dù Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đầu tư cho các chương trình khoa học công nghệ.
Trả lời câu hỏi của chất vấn của các đại biểu, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt khẳng định, trong những năm qua, Đảng, Nhà nước, Quốc hội rất quan tâm đến hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới, sáng tạo, cân đối bố trí vốn cho ngành.
Với câu hỏi của đại biểu Lê Thanh Vân về “có bao nhiêu đề tài mang kết quả thiết thực”, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho biết, lĩnh vực khoa học công nghệ có tính đặc thù, có rủi ro và độ trễ, việc thống kê số liệu bao nhiêu đề tài ứng dụng vào thực tiễn là điều rất khó. Có những đề tài phải nhiều năm sau này mới phát huy giá trị, có những đề tài nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng, có đề tài nghiên cứu lĩnh vực khoa học xã hội, nghiên cứu phát triển. “Về số liệu chính thức, việc thống kê này cũng tương đối khó khăn, tuy nhiên, Bộ sẽ có thống kê chính xác hơn để phục vụ cho các đại biểu Quốc hội một các thỏa đáng”, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho biết.
Cũng theo Bộ trưởng, với các đề tài nghiên cứu, điều quan trọng là cần xác định được kết quả đó trước hết phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội, đồng thời nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học của bản thân các nhà khoa học, đội ngũ nghiên cứu, đóng góp vào uy tín của các viện nghiên cứu, các trường đại học.
Chưa hài lòng với phần trả lời của Bộ trưởng, đại biểu Lê Thanh Vân tranh luận rằng, điểm “kích nổ” trong chính sách để Việt Nam bứt phá về khoa học công nghệ chính là nhân tài. Chỉ có nhân tài, nhất là nhân tài khoa học công nghệ mới có thể làm thay đổi diện mạo khoa học công nghệ Việt Nam. Theo đại biểu, thứ tự ưu tiên lựa chọn các chính sách để “kích nổ” trong công nghệ đó là nhân tài ở các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, blockchain, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới…
Tiếp thu ý kiến tranh luận của đại biểu Lê Thanh Vân, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho biết, thời gian tới, Bộ sẽ trình đề án về đội ngũ trí thức trong giai đoạn từ nay đến năm 2030.
Khuyến khích doanh nghiệp sử dụng Quỹ phát triển khoa học công nghệ
Đặt câu hỏi chất vấn về các giải pháp để tổ chức khoa học công nghệ, hỗ trợ doanh nghiệp nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ, đại biểu Huỳnh Thanh Phương – Đoàn ĐBQH tỉnh Tây Ninh đề nghị Bộ trưởng cho biết Nhà nước đã có giải pháp, chính sách gì để tổ chức khoa học công nghệ, nâng cao năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu lực hiệu quả trong thời gian tới, đảm bảo vai trò đi đầu, đủ khả năng hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước về nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ, dẫn dắt nền sản xuất trong nước.
Trả lời đại biểu, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho biết Nghị định 60 tạo điều kiện cho đơn vị sự nghiệp phát huy tự chủ thực hiện nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, đơn vị sự nghiệp ở nhiều lĩnh vực với mỗi hệ thống có tính chất khác nhau. Nghị định 60 không điều chỉnh được đặc thù của lĩnh vực khoa học công nghệ như trong nghiên cứu cơ bảu, nghiên cứu phát triển, nghiên cứu triển khai.
Do đó, Bộ đã kiến ghị Chính phủ xem xét cho xây dựng Nghị định riêng cho tự chủ các tổ chức khoa học công nghệ công lập theo hướng tự chủ toàn diện hơn về tổ chức bộ máy, nhiệm vụ tài chính, quản lý tài sản.
Đối với các câu hỏi liên quan đến việc “doanh nghiệp không mặn mà với việc trích lập và sử dụng Quỹ phát triển khoa học công nghệ”, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho biết, giai đoạn 2015 - 2021, tổng số doanh nghiệp trích quỹ là 1.281 doanh nghiệp, chiếm 0,14% trên tổng số doanh nghiệp cả nước, giải ngân chỉ đạt 60%.
Đồng thời, việc trích quỹ thực hiện chủ yếu ở các doanh nghiệp lớn, trong khi đó phương thức để trích lập và sử dụng quỹ còn khó khăn nên việc trích lập quỹ không được nhiều doanh nghiệp thực hiện.
“Mặc dù Bộ Tài chính và Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành thông tư nhưng đến nay chưa thút hút thêm các doanh nghiệp tiến hành trích lập quỹ”, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho biết và kiến nghị: “Quốc hội có chính sách hiệu quả hơn, trong đó cho phép doanh nghiệp sử dụng quỹ để mua sắm trang thiết bị, máy móc để phục vụ sản xuất kinh doanh. Có như vậy, việc miễn giảm thuế mới thu hút được các doanh nghiệp”.
Giải pháp căn cơ để khoa học, công nghệ phát triển
Trả lời chất vấn trước Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho biết, hiện nay, Bộ đang tiến hành sửa các thông tư quy định về quản lý các chương trình, nhiệm vụ khoa học công nghệ một cách đồng loạt để đảm bảo các thông tư có tính liên thông, đồng bộ với nhau. Hiện nay, các thông tư cơ bản đã được hoàn thành. Vừa qua, Bộ đã ban hành 5 thông tư mới, đồng bộ với việc tái cơ cấu các chương trình khoa học, công nghệ quốc gia.
Bộ cũng đã bãi bỏ quy định các nhà khoa học là chủ nhiệm có nghiệm thu không đạt thì không được tiếp tục tham gia nhiệm vụ khoa học công nghệ trong 2 năm tiếp theo. Điều này thể hiện Bộ rất quan tâm đến tính đặc thù, tính rủi ro, độ trễ của ngành khoa học công nghệ để có những quy định tiến bộ, phù hợp.
Nhấn mạnh khoa học là con đường ngắn nhất đi đến thịnh vượng, Bộ trưởng cho biết Bộ hết sức cố gắng để động viên các nhà khoa học tham gia một cách tích cực vào các hoạt động thiên chức của mình là nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo. Bộ trưởng cũng kiến nghị các cấp chính quyền tin tưởng hơn nữa, giao nhiều trọng trách, nhiệm vụ, cơ chế hơn nữa cho các nhà khoa học một cách thỏa đáng để lực lượng này phát huy được năng lực, đóng góp được nhiều hơn nữa cho sự phát triển đất nước.
Về phát triển thị trường khoa học công nghệ, Bộ trưởng cho biết, hiện vẫn thiếu các tổ chức trung gian để kết nối bên cung và bên cầu về công nghệ. Bên cạnh đó là những khó khăn trong thực hiện cơ chế chính sách nên chưa khuyến khích việc chuyển giao khoa học công nghệ vào cuộc sống.
“Hiện nay, Bộ Khoa học và Công nghệ đang triển khai các chương trình khoa học công nghệ quốc gia để nâng cao năng lực nghiên cứu của các Viện, các trường, năng lực hấp thụ công nghệ của các doanh nghiệp; tăng cường năng lực các sàn giao dịch công nghệ quốc gia theo chiều sâu.
Đồng thời, cần mạnh dạn trao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu cho viện, trường, tổ chức nghiên cứu để khuyến khích các nhà khoa học tổ chức nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn”, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho biết.
Về chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài trong lĩnh vực công nghệ, Bộ trưởng khẳng định, điểm cốt lõi là cần lựa chọn và sử dụng theo trình độ chuyên môn, không bị ràng buộc bởi các quy định, điều kiện, tiêu chuẩn mang tính chất hành chính. Đồng thời, giao quyền chủ động cho người làm công tác nghiên cứu.
Đối với việc thành lập các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, đây là một mô hình mới, cần thời gian xem xét, đánh giá hiệu quả của trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia sau đó mới tiếp tục nhân rộng thành lập các địa phương khác.
Tham gia trả lời chất vấn trước Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cho rằng, về cơ chế quản lý khoa học công nghệ cần thiết kế hoàn thiện lại để phù hợp hơn. Nhà nước nên đặt hàng và thanh toán theo sản phẩm đặt hàng. Việc đặt hàng có thể thực hiện đấu thầu, có thể chỉ định thầu, lập dự toán, từ đó chọn những tổ chức nghiên cứu đảm bảo được sản phẩm đầu ra, giúp việc thanh toán được thuận lợi hơn. Cùng với đó, cần quy định việc chuyển giao, ứng dụng đề tài nghiên cứu vào thực tiễn để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Phát biểu kết thúc phiên chất vấn, Chủ tịch Quốc hội đề nghị, qua phiên chất vấn, Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, các Bộ trưởng có liên quan tiếp thu tối đa ý kiến góp ý của đại biểu Quốc hội, chỉ đạo quyết liệt, thực hiện các giải pháp đề ra nhằm khắc phục tồn tại, hạn chế.
Chủ tịch Quốc hội lưu ý cần tập trung vào những vấn đề chính. Theo đó, thực hiện có hiệu quả Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030; triển khai đồng bộ các Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia đến năm 2030. Tiếp tục thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và đồng bộ hóa các quy định pháp luật, chính sách của Nhà nước về phát triển khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Đổi mới tư duy về trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho tổ chức khoa học và công nghệ công lập nhằm tăng cường trách nhiệm, nâng cao tính chủ động, sáng tạo của tổ chức. Có giải pháp để các trường đại học thực sự trở thành trung tâm nghiên cứu khoa học và công nghệ và là trung tâm đào tạo đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo trình độ cao.
Chú trọng hơn việc xác lập quyền sở hữu công nghiệp, công nhận, đăng ký lưu hành sản phẩm mới, công nghệ mới; công bố công nghệ mới, sản phẩm mới tạo ra tại Việt Nam từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
Tăng đầu tư từ NSNN cho khoa học và công nghệ; xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp tăng cường đầu tư cho khoa học và công nghệ và đẩy mạnh liên kết với các tổ chức nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước, các doanh nghiệp nước ngoài. Hoàn thiện quy định về khu công nghệ cao; tiếp tục nghiên cứu, tham mưu giải pháp thúc đẩy phát triển các loại hình khu chức năng.
Sớm hoàn thiện hành lang pháp lý về Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia; trong đó nghiên cứu rà soát để đề xuất sửa đổi các quy định pháp luật liên quan. Đẩy mạnh xã hội hoá các dịch vụ khoa học và công nghệ, nhất là dịch vụ tư vấn, môi giới, đánh giá, thẩm định và giám định công nghệ, các dịch vụ sở hữu trí tuệ và tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng.