(thitruongtaichinhtiente.vn) - Bất chấp những biến động khó lường do đại dịch, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ròng liên tục duy trì ở mức 6% GDP, tương đương với mức trước đại dịch. Đây là một “con át chủ bài” của Việt Nam vì nguồn vốn đầu tư nước ngoài đổ vào lĩnh vực sản xuất đã giúp cải thiện tình hình tài khoản vãng lai của Việt Nam.
Nhận định trên được đưa ra báo cáo “Vietnam at a glance tháng 12/2021” vừa được HSBC công bố. Báo cáo cho biết, khả năng ứng phó trước các rủi ro bên ngoài của Việt Nam đã ngày càng tốt lên qua các năm nhờ có thặng dư tài khoản vãng lai do thặng dư thương mại tăng lên. Tuy nhiên, khả năng này đã yếu dần đi trong năm 2021 do tác động tiêu cực từ đại dịch COVID-19. Trong bối cảnh đó, tin tốt là động lực tăng trưởng bên ngoài đã hoạt động trở lại sau khi mở cửa nền kinh tế từ ngày 1/10.
Đề phòng rủi ro bên ngoài
Nhắc đến tình hình gián đoạn chuỗi cung ứng, HSBC cho rằng, đây là thử thách khó khăn nhất Việt Nam từng gặp phải. Sau 4 tháng giãn cách xã hội, động lực kinh tế bên ngoài vốn là trụ cột tăng trưởng chính của nền kinh tế đã phần nào suy yếu do các nhà máy ngưng hoạt động.
“Năm 2020, chúng tôi từng nhấn mạnh khả năng chống chịu trước các cú sốc bên ngoài của Việt Nam ngày càng tốt lên theo thời gian (xem thêm báo cáo Vietnam at a glance: A better defender, 15/5/2020). Mặc dù vậy, do bối cảnh thay đổi, đây là lúc đánh giá lại tình hình tài khoản vãng lai của Việt Nam”, báo cáo của HSBC viết.
Trong năm đầu tiên đại dịch xảy ra, thặng dư tài khoản vãng lai của Việt Nam ghi nhận mức cao kỷ lục, tương đương 5,5% GDP nhờ xuất khẩu tăng trưởng vượt bậc trong khi nhập khẩu thu hẹp bất thường. Tuy nhiên, các chỉ số thương mại cơ bản đã thay đổi kể từ đợt bùng phát dịch lến thứ tư do biến chủng Delta xuất hiện trong tháng 5/2021. Trong quý II/2021, Việt Nam chứng kiến mức thâm hụt tài khoản vãng lai theo quý cao nhất từ trước tới nay, tương đương 6,7% GDP trong bối cảnh cán cân thương mại chuyển dịch từ thặng dư sang thâm hụt…
Ngoài ra, thâm hụt về dịch vụ cũng là yếu tố ảnh hưởng tiêu cực. Trước đại dịch, ngành du lịch phát triển mạnh mẽ mang lại nguồn thu ngoại hối quan trọng khiến thâm hụt dịch vụ trường kỳ của Việt Nam giảm xuống mức thấp nhất trong lịch sử là 1,5 tỷ USD vào năm 2019. Tuy nhiên, khi ngành du lịch bị “đóng băng”, thâm hụt dịch vụ tăng gần 10 lần lên đến 10 tỷ USD trong năm 2020. Tình hình chưa mấy cải thiện trong năm 2021 cho thấy thâm hụt dịch vụ năm nay cũng sẽ không dưới mức năm ngoái.
“Điều đáng khích lệ là Việt Nam đã bước đầu mở cửa lại biên giới đón khách du lịch nước ngoài đến năm địa phương từ tháng 11/2021”, HSBC cho biết. Dẫu vậy, những yếu tố kết hợp như sự thiếu vắng du khách Trung Quốc và việc trì hoãn mở lại các đường bay quốc tế dự báo khả năng phục hồi ngắn hạn nhanh chóng theo hình chữ V của ngành du lịch ít có cơ hội xảy ra trong năm 2022. Như vậy, ảnh hưởng tiêu cực của thâm hụt dịch vụ lên tài khoản vãng lai sẽ còn kéo dài, mặc dù nhiều khả năng sẽ không quá nhiều.
“Mặc dù vậy, bức tranh toàn cảnh không chỉ toàn là màu xám. Lượng kiều hối gửi về đều đặn từ cộng đồng rất động người Việt ở hải ngoại là một trong những điểm sáng”, báo cáo của HSBC nhấn mạnh. Bất chấp đại dịch, trong năm 2021, Việt Nam vẫn là nước nhận kiều hối cao thứ ba ở châu Á với tổng giá trị chuyển về đạt 18 tỷ USD, chỉ đứng sau Trung Quốc và Philippines. Trong giai đoạn như hiện nay, HSBC cho rằng, kiều hối ổn định là nguồn hỗ trợ có giá trị cho tài khoản vãng lai của Việt Nam.
Trong quý IV/2021, HSBC dự báo, cán cân thương mại của Việt Nam nhiều khả năng sẽ có thặng dư. Trong tháng 10 và11/2021, cán cân thương mại đat thặng dư cộng dồn 2,8 tỷ USD sau 2 quý thâm hụt liên tiếp và góp phần đẩy thặng dư thương mại của cả năm tính đến thời điểm này lên mức 0,9 tỷ USD. Tuy nhiên, ngay cả khi có thặng dư thương mại trong năm 2021, HSBC cho rằng, mức độ thặng dư này không có khả năng bù đắp được thâm hụt chính và thâm hụt dịch vụ. “Do vậy, chúng tôi dự đoán tài khoản vãng lai sẽ thâm hụt nhẹ vào khoảng 0,5% GDP trước khi đạt thặng dư khiêm tốn tương đương 2,3% GDP trong năm 2022”, các chuyên gia của HSBC nhận định và cho biết thêm: “Việt Nam cần hết sức thận trọng bởi tốc độ khôi phục chuỗi cung ứng, bởi điểu này phụ thuộc rất nhiều vào khả năng kiểm soát được đợt bùng dịch COVID-19”.
Trợ lực từ dòng vốn FDI
Trong báo cáo, các chuyên gia của HSBC cho biết, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) duy trì ổn định vẫn là một trụ cột vững chắc hỗ trợ cho cán cân chính của Việt Nam. Bất chấp những biến động khó lường do đại dịch, FDI ròng liên tục duy trì ở mức 6% GDP, tương đương với mức trước đại dịch. “Đây là một “con át chủ bài” của Việt Nam vì nguồn vốn đầu tư nước ngoài đổ vào lĩnh vực sản xuất đã giúp cải thiện tình hình tài khoản vãng lai của Việt Nam”, báo cáo của HSBC nhấn mạnh.
Những biến động trong ngắn hạn là khó tránh khỏi trong bối cảnh Việt Nam vẫn còn đang trong cuộc chiến ứng phó với tình trạng số ca mắc mới mỗi ngày tăng trở lại và khó khăn do thiếu hụt lao động trầm trọng. Dẫu vậy, HSBC vẫn tin rằng, các quyết định đầu tư FDI phụ thuộc vào tiềm năng trong trung và dài hạn của nền kinh tế. Vẫn còn nhiều lý do chính đáng để lạc quan về các điều kiện cơ bản của Việt Nam nếu xét tới lợi thế cạnh tranh trong hiệu quả chi phí nhân công, cơ sở hạ tầng được cải thiện, các cụm công nghiệp có sẵn và một loạt hiệp định tự do thương mại.
Xét cho cùng, ưu tiên lúc này của các nhà làm chính sách là lấy lại đà tăng trưởng và củng cố niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài. Nhiệm vụ cấp thiết nhất là làm sao kiểm soát được đợt bùng dịch COVID-19 thứ năm, đồng thời đưa ra những chế độ đãi ngộ phù hợp và tạo điều kiện thuận lợi để thu hút công nhân trở lại nhà máy làm việc an toàn, ổn định.