Tăng trưởng tín dụng kỳ vọng sẽ khởi sắc, tỷ giá liên ngân hàng tăng, lãi suất liên ngân hàng tăng ở các kỳ hạn 1 tháng trở xuống, chứng khoán giảm điểm mạnh, nước Mỹ cũng đón một số chỉ báo đáng chú ý, nhiều khả năng FED giữ lãi suất đi ngang trong cuộc họp sắp tới… là những thông tin kinh tế, tài chính, tiền tệ trong nước và thế giới đáng chú ý trong tuần qua
Theo thông tin từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), đến ngày 29/9, tín dụng toàn nền kinh tế đạt khoảng 12,749 triệu tỷ đồng, tăng 6,92% so với cuối năm 2022. Tuy nhiên, mức tăng này vẫn còn thấp hơn đáng kể so với cùng kỳ các năm trước.
Đáng chú ý, trước đó NHNN cho biết, đến ngày 21/9, tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế đạt khoảng 5,91%. Còn theo báo cáo của Tổng cục thống kê thì tín dụng đến ngày 20/9 tăng khoảng 5,73%.
Như vậy chỉ trong tuần cuối tháng 9/2023, tín dụng đã tăng trưởng khá mạnh, từ 5,91% lên 6,92%. Tính theo số tuyệt đối thì có đến hơn 120 nghìn tỷ đồng được ngành Ngân hàng bơm ra nền kinh tế chỉ trong những ngày cuối tháng vừa qua. Sự bứt tốc này cũng gây chú ý bởi kể từ tháng 6/2023, tăng trưởng tín dụng đã chậm lại đáng kể so các tháng trước (tăng trưởng tín dụng cuối tháng 6 là 4,73%, cuối tháng 7 là 4,54%). Điểm sáng nữa là, tín dụng đối với một số lĩnh vực ưu tiên tăng trưởng cao hơn mặt bằng chung.
Đến ngày 29/9, tín dụng toàn nền kinh tế đạt khoảng 12,749 triệu tỷ đồng, tăng 6,92% so với cuối năm 2022.
Cũng theo NHNN, tính đến ngày 30/9, lãi suất huy động bình quân là khoảng 5,9%, tổng vốn huy động của các ngân hàng thương mại (NHTM) là 12.900 nghìn tỷ đồng. Lãi suất cho vay dự đoán là khoảng 6,1 - 6,2%. Tổng dư nợ của nền kinh tế là 12.630 nghìn tỷ đồng.
Số liệu mới nhất về mức giảm trung bình lãi suất cho vay, nhất là khoản vay mới là 1,0 - 1,3%. Lãi suất bình quân cho vay đối với các khoản vay ngắn hạn là 5,5-5,7%, vay trung - dài hạn là 5,8-10%.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, ngành Ngân hàng đã và đang áp dụng nhiều biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp, người vay vốn, cụ thể:
(i) Các TCTD cam kết giảm khoảng 22 nghìn tỷ đồng lãi cho vay;
(ii) triển khai chương trình 120 nghìn tỷ đồng phát triển nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ theo Nghị quyết 33 của Chính phủ (đến nay, BIDV và Agribank đã ký hợp đồng tín dụng tài trợ 3 dự án nhà ở xã hội tại tỉnh Phú Thọ, Quảng Ninh, Bắc Ninh với số tiền giải ngân đạt 82,7 tỷ đồng...);
(iii) triển khai chương trình tín dụng đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản với quy mô khoảng 15.000 tỷ đồng, lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam thấp hơn tối thiểu từ 1-2%/năm so với mức lãi suất cho vay bình quân cùng kỳ hạn (ngắn hạn; trung, dài hạn) của chính ngân hàng cho vay, thời gian triển khai đến hết ngày 30/6/2024 (đến nay đã có 13 NHTM đăng ký tham gia chương trình và thực hiện cho vay với doanh số giải ngân đạt gần 5.500 tỷ đồng, bằng 37% tổng số tiền cam kết cho vay theo chương trình, cho 2.000 lượt khách hàng vay vốn);
(iv) NHNN đã ban hành chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư 02/2023/TT-NHNN, nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn trong tất cả các ngành, lĩnh vực được kéo dài thời gian trả nợ mà không bị chuyển nhóm nợ xấu và được tiếp cận các khoản vay mới phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, phục vụ đời sống (đến cuối tháng 8/2023, lũy kế tổng giá trị nợ gốc và lãi được cơ cấu thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ là gần 121.000 tỷ đồng, với gần 124.000 lượt khách hàng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ).
Cả NHNN lẫn các chuyên gia tài chính – tiền tệ đều kỳ vọng rằng, trong 3 tháng cuối năm, theo yếu tố mùa vụ, tín dụng sẽ tăng tốc nhanh.
Có thể thấy, nhiều biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp và người vay vốn đã được triển khai, tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng 9 tháng qua vẫn ở mức thấp. Theo các chuyên gia, nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ các yếu tố khách quan như: Cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh, tiêu dùng giảm; một số nhóm khách hàng có nhu cầu nhưng chưa đáp ứng điều kiện vay vốn, nhất là nhóm DNNVV; khả năng hấp thụ tín dụng của nhóm bất động sản thấp; sau thời gian kinh tế gặp khó khăn, mức độ rủi ro bị đánh giá cao hơn, khi hoạt động của doanh nghiệp khó chứng minh hiệu quả (chi phí đầu vào, nguyên vật liệu nhập khẩu cao, thị trường đầu ra, đơn hàng, doanh thu giảm...); TCTD hiện rất khó khăn trong quyết định cho vay do vẫn luôn phải tuân thủ chuẩn tín dụng để đảm bảo an toàn hệ thống.
Cả NHNN lẫn các chuyên gia tài chính – tiền tệ đều kỳ vọng rằng, trong 3 tháng cuối năm, theo yếu tố mùa vụ, tín dụng sẽ tăng tốc nhanh khi nhu cầu tín dụng vào các ngành nghề công nghiệp, sản xuất, thương mại, dịch vụ phục hồi từ động lực xuất - nhập khẩu và tiêu dùng cải thiện cùng những tín hiệu tích cực hơn của thị trường bất động sản từ quý IV/2023 khi mặt bằng lãi suất giảm. Tuy nhiên, việc đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng 14-15% như NHNN đặt ra từ đầu năm vẫn là một thách thức lớn, cần nỗ lực cả từ hệ thống tài chính lẫn phía doanh nghiệp, người vay vốn, trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn do lạm phát cao, rủi ro địa – chính trị lớn...
Thị trường ngoại tệ: Trong tuần từ ngày 16 - 20/10, tỷ giá trung tâm được NHNN điều chỉnh tăng ở tất cả các phiên. Chốt ngày 20/10, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 24.110 VND/USD, tăng mạnh 33 đồng so với phiên cuối tuần trước đó. NHNN tiếp tục niêm yết tỷ giá mua giao ngay ở mức 23.400 VND/USD. Tỷ giá bán giao ngay phiên cuối tuần được niêm yết ở mức 25.265 VND/USD, thấp hơn 50 đồng so với trần tỷ giá.
Tỷ giá liên ngân hàng tiếp tục biến động theo xu hướng tăng trong tuần qua. Kết thúc phiên ngày 20/10, tỷ giá liên ngân hàng đóng cửa tại 24.525 VND/USD, tăng 75 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá trên thị trường tự do vẫn ít biến động trong tuần qua. Chốt phiên ngày 20/10, tỷ giá tự do giảm 20 đồng ở chiều mua vào trong khi tăng 10 đồng ở chiều bán ra so với phiên cuối tuần trước đó, giao dịch tại 24.550 VND/USD và 24.630 VND/USD.
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng: Tuần từ ngày 16 – 20/10, lãi suất VND liên ngân hàng tăng mạnh ở tất cả các kỳ hạn từ 1 tháng trở xuống. Chốt ngày 20/10, lãi suất VND liên ngân hàng giao dịch quanh mức: Qua đêm là 1,55% (+1,15 đpt); 1 tuần là 1,70% (+1,10 đpt); 2 tuần là 1,83% (+1,01 đpt); 1 tháng là 2,03% (+0,75 đpt).
Lãi suất USD liên ngân hàng biến động theo xu hướng giảm ở tất cả các kỳ hạn. Phiên cuối tuần (ngày 20/10), lãi suất USD liên ngân hàng đóng cửa ở mức: Qua đêm là 5,05% (-0,05 đpt); 1 tuần là 5,16% (-0,05 đpt); 2 tuần là 5,24% (-0,04 đpt) và 1 tháng là 5,34% (-0,02 đpt).
Tỷ giá liên ngân hàng tiếp tục biến động theo xu hướng tăng trong tuần qua. Kết thúc phiên ngày 20/10, tỷ giá liên ngân hàng đóng cửa tại 24.525 VND/USD, tăng 75 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Thị trường mở: Trên thị trường mở tuần từ ngày 16 – 20/10, trên kênh cầm cố, NHNN chào thầu ở kỳ hạn 7 ngày với khối lượng là 5.000 tỷ đồng, lãi suất ở mức 4,0%. Không có khối lượng trúng thầu, không có khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố.
NHNN tiếp tục chào thầu tín phiếu NHNN với kỳ hạn 28 ngày, đấu thầu lãi suất. Có 55.899,7 tỷ đồng tín phiếu trúng thầu, lãi suất phiên thứ Sáu ở mức 1,45% (+0,50 đpt so với cuối tuần trước đó). Có 20.000 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn. Như vậy, NHNN hút ròng 35.899,7 tỷ đồng từ thị trường, đưa khối lượng tín phiếu lưu hành trên thị trường lên gần 241.600 tỷ đồng.
Thị trường trái phiếu: Ngày 16/10, Ngân hàng Chính sách xã hội chào thầu 2.500 tỷ đồng trái phiếu chính phủ bảo lãnh, khối lượng trúng thầu là 1.500 tỷ đồng, tương đương 60%. Trong đó, kỳ hạn 5 năm trúng thầu toàn bộ 1.500 tỷ đồng chào thầu với lãi suất 2,5% (không đổi so với tuần trước). Kỳ hạn 10 năm và 15 năm chào thầu 500 tỷ đồng mỗi kỳ hạn, tuy nhiên không có khối lượng trúng thầu ở cả hai kỳ hạn này.
Ngày 18/10, Kho bạc Nhà nước chào thầu 5.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, khối lượng trúng thầu là 2.775 tỷ đồng, tương đương 56%. Trong đó, kỳ hạn 5 năm huy động được toàn bộ 1.000 tỷ đồng chào thầu; kỳ hạn 10 năm huy động được 750 tỷ đồng/1.500 tỷ đồng; kỳ hạn 15 năm huy động được 1.000 tỷ đồng/2.000 tỷ đồng và kỳ hạn 30 năm huy động được 25 tỷ đồng/500 tỷ đồng chào thầu. Lãi suất trúng thầu các kỳ hạn lần lượt tại: 5 năm là 1,65% (+0,01 đpt), 10 năm là 2,40% (+0,02 đpt), 15 năm là 2,63% (+0,02 đpt), 30 năm là 3,05% (không thay đổi).
Trong tuần này, ngày 23/10, Ngân hàng Chính sách xã hội chào thầu 2.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ bảo lãnh, trong đó, kỳ hạn 5 năm chào thầu 1.000 tỷ đồng, kỳ hạn 10 năm và 15 năm chào thầu 500 tỷ đồng mỗi kỳ hạn. Ngày 25/10, Kho bạc Nhà nước chào thầu 5.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, trong đó kỳ hạn 5 năm chào thầu 1.000 tỷ đồng, kỳ hạn 10 năm và 15 năm chào thầu 2.000 tỷ đồng mỗi kỳ hạn.
Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp tuần qua đạt trung bình 5.012 tỷ đồng/phiên, giảm so với mức 6.745 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất trái phiếu chính phủ trong tuần qua tăng ở hầu hết các kỳ hạn. Chốt phiên ngày 20/10, lợi suất trái phiếu chính phủ giao dịch quanh 1 năm là 1,79% (+0,04 đpt); 2 năm là 1,80% (+0,03 đpt); 3 năm là 1,80% (+0,03 đpt); 5 năm là 1,77% (-0,01 đpt); 7 năm là 2,70% (+0,18 đpt); 10 năm là 3,06% (+0,21 đpt); 15 năm là 3,26% (+0,23 đpt); 30 năm là 3,37% (+0,15 đpt).
Thị trường chứng khoán: Tuần từ ngày 16 – 20/10, thị trường chứng khoán mặc dù phục hồi phiên cuối tuần nhưng chốt tuần vẫn giảm điểm mạnh. Chốt phiên ngày 20/10, VN-Index đứng ở mức 1.108,03 điểm, rớt tới 46,70 điểm (-4,04%) so với cuối tuần trước đó; HNX-Index mất 10,60 điểm (-4,43%) về 228,45 điểm; UPCom-Index giảm 2,28 điểm (-2,59%) còn 85,62 điểm.
Thanh khoản thị trường vẫn ở mức thấp với giá trị giao dịch trung bình gần 17.600 tỷ đồng/phiên, tăng nhẹ so với mức khoảng 15.800 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Khối ngoại tiếp tục bán ròng hơn 825 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Tuần qua, Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ liên bang Mỹ (FED) Jerome Powell có bài phát biểu quan trọng về kinh tế và chính sách tiền tệ, bên cạnh đó nước Mỹ cũng đón một số chỉ báo đáng chú ý.
Ngày 19/10, tại Câu lạc bộ Kinh tế New York, ông Powell nhận định, chỉ báo lạm phát PCE toàn phần và PCE lõi của Mỹ đến cuối tháng 8 lần lượt ở mức 3,5% và 3,7%, cùng hạ nhiệt so với mức đỉnh 7,1% và 5,6% trước đây.
Thị trường lao động Mỹ dù đang ở trạng thái thắt chặt nhưng cũng đang nguội dần. Các chỉ số về tăng trưởng tiền lương cũng cho thấy sự giảm tốc, phù hợp với mục tiêu lạm phát 2,0% theo thời gian.
Ông Powell nhấn mạnh, để đạt được mục tiêu lạm phát một cách bền vững, nước Mỹ có thể cần một giai đoạn tăng trưởng dưới tiềm năng. Đồng thời, khẳng định FED đang tiến hành đưa ra quyết định một cách thận trọng, dựa theo dữ liệu kinh tế và lạm phát trong tương lai.
Công cụ của CME dự báo có 96% khả năng FED giữ lãi suất đi ngang trong cuộc họp sắp tới (ngày 1/11) và 4% khả năng hạ nhẹ lãi suất ở mức 25 điểm cơ bản xuống còn 5,0% - 5,25%.
Liên quan đến thông tin kinh tế Mỹ tuần qua, doanh số bán lẻ toàn phần và doanh số bán lẻ lõi tại nước này lần lượt tăng 0,7% và 0,6% trong tháng 9, nối tiếp đà tăng 0,8% và 0,9% của tháng trước đó, đồng thời cùng mạnh hơn so với mức tăng 0,3% và 0,2% theo dự báo. So với cùng kỳ năm 2022, doanh số bán lẻ toàn phần tăng 3,8%.
Tiếp theo, sản lượng công nghiệp tại Mỹ cũng tăng 0,3% trong tháng vừa qua sau khi tăng 0,4% ở tháng 8/2023, trái với dự báo đi ngang của các chuyên gia. So với cùng kỳ 2022, sản lượng công nghiệp tháng 9/2023 tăng 0,8%.
Tại thị trường xây dựng nhà, số cấp phép xây dựng tại nước Mỹ đạt 1,47 triệu đơn trong tháng 9/2023, giảm xuống từ 1,54 triệu của tháng 8/2023, cao hơn mức 1,45 triệu đơn theo dự báo. Ngược lại, số nhà khởi công trong tháng vừa qua lại đạt 1,36 triệu căn, cao hơn mức 1,27 triệu căn của tháng trước đó, gần khớp với mức 1,39 triệu căn theo dự báo.
Cuối cùng, về thị trường lao động, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tại Mỹ tuần kết thúc ngày 14/10 ở mức 198 nghìn đơn, giảm xuống từ 211 nghìn đơn của tuần trước đó, thấp hơn mức 210 nghìn đơn theo dự báo. Số đơn bình quân 4 tuần gần nhất là 205,8 nghìn đơn, giảm 1 nghìn so với trung bình 4 tuần trước đó.
Sau khi các thông tin được công bố, công cụ của CME dự báo có 96% khả năng FED giữ lãi suất đi ngang trong cuộc họp sắp tới (ngày 1/11) và 4% khả năng hạ nhẹ lãi suất ở mức 25 điểm cơ bản xuống còn 5,0% - 5,25%.
Nước Anh ghi nhận nhiều thông tin kinh tế quan trọng. Đầu tiên, về lạm phát, CPI toàn phần tại nước Anh tăng 6,7% trong tháng 9/2023, bằng với mức tăng của tháng 8/2023 và không hạ nhiệt nhẹ xuống 6,6% như kỳ vọng. CPI lõi tại nước này trong tháng vừa qua tăng 6,1%, thấp hơn mức tăng 6,2% của tháng trước đó, song vẫn cao hơn mức tăng 6,0% theo dự báo.
Tiếp theo, doanh số bán lẻ tại Anh giảm khá mạnh 0,9% trong tháng 9/2023 sau khi tăng 0,4% ở tháng trước đó, sâu hơn so với mức giảm 0,3% theo dự báo. So với cùng kỳ 2022, doanh số bán lẻ tháng 9/2023 giảm 1,0%.
Niềm tin tiêu dùng tại nước Anh trong tháng 10 tụt xuống mức -30 điểm từ mức -21 điểm của tháng 9/2023, trái với dự báo nhích nhẹ lên mức -20 điểm.
Cuối cùng, thu nhập bình quân của người dân nước này tăng 8,1% trong 3 tháng 6&7&8/2023, giảm tốc so với mức tăng 8,5% của 3 tháng 5&6&7/2023, đồng thời thấp hơn mức tăng 8,3% theo dự báo. Đây là lần đầu tiên thu nhập của người dân nước này giảm tốc trở lại kể từ sau tháng 3/2023.
Nguồn: MSB Research