Thời gian qua, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đặc biệt quan tâm chỉ đạo NHNN điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, luôn có sự chủ động trong dự báo, kịp thời chuyển hướng điều hành phù hợp với diễn biến thực tế ở mỗi giai đoạn khác nhau. PGS.TS Ngô Trí Long, chuyên gia kinh tế đã có những nhận định về việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề, chất vấn về chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước.
Các nhiệm vụ mà Ngân hàng Nhà nước (NHNN) được giao tại Nghị quyết số 62/2022/QH15 bao gồm nhiều nhóm nhiệm vụ, trong đó nhóm chủ động, linh hoạt, đồng bộ các công cụ của chính sách tiền tệ, phối hợp với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, thích ứng kịp thời với diễn biến của thị trường trong nước và quốc tế. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với nền kinh tế nước ta trong bối cảnh phục hồi và phát triển sau đại dịch COVID-19 và diễn biến bất thường về địa chính trị và sự bất ổn của kinh tế thế thế giới.
Thời gian qua, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã đặc biệt quan tâm chỉ đạo NHNN điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, luôn có sự chủ động trong dự báo, kịp thời chuyển hướng điều hành phù hợp với diễn biến thực tế ở mỗi giai đoạn, thời điểm khác nhau. Nhờ đó, dù trong hoàn cảnh khó khăn, chúng ta đã thực hiện được mục tiêu về kiểm soát lạm phát, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng cũng như bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, công tác điều hành chính sách tiền tệ thời gian qua và hiện nay của NHNN đang đối diện với rất nhiều khó khăn và thách thức, đòi hỏi “ổn định chính sách tiền tệ trong môi trường nhiều biến động”. Do vậy, công tác điều hành phải rất linh hoạt, chủ động thích ứng, kịp thời đưa ra các giải pháp điều hành nhằm hỗ trợ phục hồi nền kinh tế sau khi chịu tác động nghiêm trọng và nặng nề từ đại dịch COVID-19 nhưng vẫn phải đảm bảo mục tiêu ưu tiên hàng đầu về những quy định trong Luật NHNN là kiểm soát lạm phát và hoàn thành sứ mệnh đa mục tiêu trước hàng loạt các thách thức từ bên trong và bên ngoài.
Trong mọi tình huống, trước bối cảnh khó khăn và thách thức, NHNN đã bám sát Nghị quyết của Quốc hội và sự chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và bám sát diễn biến tình hình để chủ động tâm thế ứng phó linh hoạt, thực hiện đồng bộ các giải pháp và công cụ chính sách tiền tệ với liều lượng hợp lý để đóng góp chung vào thành công chung của nền kinh tế.
Nhìn lại nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết của Quốc hội về điều hành chính sách tiền tệ, cho đến nay về cơ bản NHNN đang triển khai đúng tiến độ, thể hiện qua 5 điểm nỏi bật sau:
(1) Về điều hành các công cụ chính sách tiền tệ: Từ năm 2021 đến nay, NHNN đã điều hành linh hoạt, chủ động nghiệp vụ thị trường mở để ổn định thị trường tiền tệ, góp phần thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ, duy trì các phiên chào mua giấy tờ có giá, sẵn sàng hỗ trợ vốn cho các TCTD, góp phần hỗ trợ phục hồi nền kinh tế, tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, trước diễn biến khó lường của thị trường quốc tế và trong nước, NHNN đã phát hành tín phiếu NHNN nhằm chủ động kiểm soát tiền tệ và hỗ trợ hoạt động điều hành tỷ giá.
Đến nay, nguồn vốn của các TCTD được đảm bảo và có dư thừa, các giao dịch trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng được thông suốt. Thanh khoản của cả hệ thống TCTD được bảo đảm, các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng hoạt động thông suốt, lãi suất liên ngân hàng VND bình quân giảm mạnh, tạo điều kiện giảm mặt bằng lãi suất.
(2) Về điều hành lãi suất: Về điều hành lãi suất, trong những năm qua, NHNN đã linh hoạt trong điều chỉnh lãi suất, điều hành phù hợp với xu hướng lạm phát và lãi suất trên thế giới.
Từ năm 2021 đến tháng 9/2022, mặc dù lãi suất thế giới tăng nhanh và áp lực lạm phát trong nước tăng nhanh, NHNN vẫn nỗ lực giữ nguyên các mức lãi suất điều hành, tạo điều kiện để giảm mặt bằng lãi suất cho vay của thị trường. Như vây, từ 2021, lạm phát trên toàn cầu đã tăng nhanh và kéo dài hơn so với dự kiến.
Năm 2022, lạm phát tại các nền kinh tế tiên tiến đạt mức cao nhất kể từ năm 1982. Lạm phát Hoa Kỳ tăng kỷ lục sau 40 năm lên 8,3% vào tháng 8/2022. Tỷ lệ này ở khu vực đồng euro là 10% vào tháng 9, trong khi tại Vương quốc Anh là 9,9%. Tại châu Á, lạm phát tháng 8/2022 của Thái Lan tăng 7,9%; Hàn Quốc tăng 5,7%; Indonesia tăng 4,7%; Nhật Bản tăng 3%; Trung Quốc tăng 2,5%. IMF dự báo lạm phát toàn cầu có thể tăng lên 8,8% trong năm 2022 và sẽ chỉ giảm bớt vào 2023 và 2024.
Trong nước, lạm phát tháng 9/2022 tăng 0,4% so với tháng trước. So với tháng 12/2021, CPI tháng 9 tăng 4,01% và so với cùng kỳ năm trước tăng 3,94%. Việt Nam tiếp tục thuộc nhóm các nước có mức tăng lạm phát thấp so với mặt bằng chung khi CPI tháng 9/2022 tăng 3,94% so với cùng kỳ năm trước.
Tuy nhiên, áp lực lạm phát trong những tháng còn lại của năm nay vẫn hiện hữu. Diễn biến giá cả hàng hóa, nguyên nhiên vật liệu trên thế giới đang có xu hướng giảm do tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại, nhưng rủi ro tăng trở lại khá cao do xung đột giữa Nga - Ucraina chưa chấm dứt.
Bên cạnh đó, sự phục hồi kinh tế Trung Quốc có thể kéo nhu cầu năng lượng gia tăng. Kinh tế Việt Nam có khả năng phục hồi mạnh hơn trong các tháng còn lại của năm nay do tác động của các gói hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng cùng với nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ tăng sẽ đẩy giá cả hàng hóa lên cao. Rủi ro lạm phát cũng được nhiều tổ chức, chuyên gia cảnh báo. Do đó, các nhà hoạch định chính sách sẽ rất quan tâm đến việc kiềm chế những áp lực tăng giá như vậy, đặc biệt là để tránh lạm phát cao như đã xảy ra trong quá khứ.
Trước áp lực lạm phát và tăng lãi suất của thế giới trong năm 2022, NHNN đã có 2 lần tăng các mức lãi suất điều hành, với tổng mức tăng 2% và 2 lần tăng lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND kỳ hạn dưới 6 tháng tại tổ chức tín dụng (ngày 23/9 và ngày 25/10/2022) với mức tăng 0,8-2%/năm; tăng 1%/năm lãi suất cho vay tối đa bằng VND đối với một số lĩnh vực ưu tiên (vào ngày 25/10/2022). Như vậy, trong vòng 1 tháng NHNN đã có 2 lần tăng lãi suất.
Quyết định tăng lãi suất của NHNN được xem là một biện pháp quan trọng để chống lạm phát. Khi lạm phát toàn cầu vẫn ở mức cao, Ngân hàng Dự trữ liên bang Mỹ (FED) và các ngân hàng trung ương lớn liên tục điều chỉnh tăng lãi suất mục tiêu và dự báo còn tiếp tục tăng trong các tháng cuối năm 2022 và năm 2023. Điều này đã khiến đồng USD lên giá mạnh, gia tăng áp lực lên mặt bằng lãi suất và tỷ giá trong nước, khiến giá hàng hóa nhập khẩu tăng cao, tạo sức ép lên lạm phát. Vì vậy, Việc NHNN tăng lãi suất là một phản ứng chủ động, kịp thời để giảm bớt các áp lực lạm phát.
Trong hơn 2 tháng đầu năm 2023, NHNN giữ nguyên các mức lãi suất điều hành trong bối cảnh mặt bằng lãi suất thế giới tiếp tục tăng và neo ở mức cao; diễn biến lạm phát trong nước và quốc tế vẫn phức tạp. Thực hiện chủ trương của Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về giảm lãi suất cho vay nhằm tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, doanh nghiệp và người dân trong các thàng đầu năm 2023, NHNN liên tục giảm 4 lần lãi suất điều hành trong bối cảnh lãi suất thế giới tiếp tục tăng và neo ở mức cao với mức giảm 0,5-2,0%/năm.
Qua 4 lần điều hành, mặt bằng lãi suất trên thị trường đã giảm mạnh, trong đó, lãi suất huy động tại nhóm ngân hàng thương mại nhà nước kỳ hạn 1-2 tháng thấp nhất chỉ còn 3,4%/năm, lãi suất kỳ hạn 6 tháng chỉ từ 5%/năm và cao nhất là kỳ hạn 12-18 tháng chỉ còn 6,3%/năm. Nhóm Ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân cũng công bố giảm lãi suất 0,1-0,3%/năm tùy từng kỳ hạn. Mức lãi suất tiết kiệm trên 8%/năm hầu như không còn trên thị trường.
Việc liên tục điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành là giải pháp linh hoạt, phù hợp với điều kiện thị trường hiện nay để qua đó tiếp tục định hướng giảm mặt bằng lãi suất cho vay của thị trường. Với động thái giảm lãi suất 4 lần liên tiếp của Ngân hàng Nhà nước, các doanh nghiệp có phương án kinh doanh hiệu quả đều tiếp cận được vốn. Đây là lúc doanh nghiệp tận dụng cơ hội lãi suất rẻ để vượt qua khó khăn, tìm thị trường, bạn hàng mới.
Đồng thời, khuyến khích TCTD tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay; chỉ đạo các TCTD triển khai các biện pháp để giảm mặt bằng lãi suất, nhất là giảm lãi suất cho vay đối với các khoản vay còn dư nợ và các khoản cho vay mới (phấn đấu giảm lãi suất tối thiểu từ 1,5-2%/năm) nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân phục hồi sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Cho đến nay, kết quả mặt bằng lãi suất đã có xu hướng giảm (lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân của các giao dịch phát sinh mới bằng VND của các ngân hàng thương mại giảm khoảng hơn 2%/năm so với cuối năm 2022). Với tác động có độ trễ của chính sách sau những lần điều chỉnh giảm lãi suất điều hành, các biện pháp của NHNN, dự kiến mặt bằng lãi suất cho vay sẽ tiếp tục giảm trong thời gian tới.
(3) Về điều hành tỷ giá và thị trường ngoại tệ: Tiếp tục điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp với tình hình thị trường trong và ngoài nước, can thiệp linh hoạt nhằm ổn định thị trường ngoại tệ. Trong bối cảnh tỷ giá USD/VND chịu áp lực lớn từ các diễn biến quốc tế phức tạp, khó lường, NHNN đã tiếp tục điều hành tỷ giá linh hoạt, hỗ trợ hấp thu có hiệu quả các cú sốc bên ngoài, nhưng đồng thời cũng có các biện pháp để hạn chế các biến động lớn trong ngắn hạn của tỷ giá, hướng tới lợi ích tổng thể hài hòa của nền kinh tế.
Nhờ đó, VND diễn biến tương đối ổn định so với các đồng tiền khác trong khu vực, góp phần tiếp tục xây dựng môi trường đầu tư ổn định, hấp dẫn, tạo niềm tin cho nhà đầu tư nước ngoài. VND mất giá khoảng 4,25% so với USD, trong khi nhiều đồng tiền các nước mất giá mạnh như Đô la Đài Loan mất giá -5,56%; Ringgit Malaysia -8,55%; Hàn Quốc -6,77%; Trung Quốc -6,09%; Nhật Bản -14,43%.
Nhìn lại từ năm 2021 đến nay, thị trường ngoại tệ có những biến động trái chiều trong từng giai đoạn. Theo đó, NHNN tiếp tục áp dụng cơ chế tỷ giá trung tâm, điều hành theo hướng từng bước để tỷ giá biến động linh hoạt hơn, phù hợp với điều kiện thị trường và nền tảng kinh tế vĩ mô.
Đồng thời, NHNN linh hoạt áp dụng các biện pháp mua/bán can thiệp ngoại tệ trên thị trường khi cần thiết và phối hợp đồng bộ, chặt chẽ với công tác truyền thông, các công cụ chính sách tiền tệ khác (lãi suất, thanh khoản VND,...) cũng như các biện pháp quản lý ngoại hối nhằm ổn định thị trường ngoại tệ, củng cố vị thế VND, góp phần kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô,
Trước thiện chí và nỗ lực của Việt Nam cũng như các biện pháp điều hành phù hợp của NHNN, từ tháng 4/2021 đến nay, NHNN đã thành công xử lý các quan ngại của phía Mỹ đối với vấn đề tỷ giá, nhờ đó, Bộ Tài chính Mỹ xác định Việt Nam không thao túng tiền tệ.
(4) Phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách khác: Trong điều hành chính sách tiền tệ, NHNN thường xuyên phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Đồng thời, NHNN đã điều hành đồng bộ, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ để điều tiết tiền tệ nhằm ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo thanh khoản tốt thanh khoản thị trường, duy trì mặt bằng lãi suất ở mức hợp lý, vừa góp phần thực hiện mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ nhưng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho Bộ Tài chính phát hành trái phiếu Chính phủ với lãi suất rất thấp (thấp hơn nhiều so với lãi suất trái phiếu chính phủ ở các quốc gia phát triển như Mỹ), giảm áp lực về chi phí lãi vay cho Ngân sách nhà nước.
(5) Về kết quả điều hành chính sách tiền tệ kiểm soát lạm phát: Từ năm 2020 đến nay, ngành Ngân hàng đã đóng góp tích cực vào việc kiểm soát thành công lạm phát ở mức dưới 4% và neo giữ kỳ vọng lạm phát ổn định (Lạm phát CPI bình quân các năm: 2020: 3,23%; 2021: 1,84%; 2022: 3,15%); Đảm bảo thanh khoản hệ thống TCTD, hỗ trợ cung ứng vốn đầy đủ, kịp thời nhu cầu sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ quá trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội; Thị trường tiền tệ hoạt động thông suốt, mặt bằng lãi suất cho vay sau khi tăng từ cuối năm 2022 đã có xu hướng giảm và duy trì ở mức thấp trong năm 2023 để hỗ trợ phục hồi kinh tế; Tỷ giá diễn biến phù hợp với tình hình thị trường, thị trường ngoại tệ thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ.
Tính đến tháng 10/2023, lạm phát mặc dù đã có dấu hiệu chậm lại nhưng lạm phát cơ bản vẫn ở mức cao nên chưa thể chủ quan: Lạm phát CPI tháng 10/2023 tăng 0,08% so với tháng trước và tăng 3,59% so với cùng kỳ, bình quân 10 tháng năm 2023 là 3,2%, thấp hơn mục tiêu 4,5%. Lạm phát cơ bản tháng 10/2023 tăng 0,09% so với tháng trước và 3,43% so với cùng kỳ, bình quân 10 tháng năm 2023 là 4,38%.
Kinh tế trong và ngoài nước vẫn khó khăn, lạm phát toàn cầu ở mức cao, mặt bằng lãi suất thế giới tiếp tục gia tăng và duy trì ở mức cao, đồng USD diễn biến phức tạp, tăng giá nhanh trong những tuần gần đây... Nhu cầu và sức hấp thụ vốn của nền kinh tế còn thấp khi chi phí đầu vào, nguyên vật liệu nhập khẩu cao, thị trường đầu ra và đơn hàng của doanh nghiệp suy giảm... kéo theo mức độ rủi ro tín dụng của khách hàng vay vốn ngày càng gia tăng.
Về phía các TCTD, các khoản huy động với lãi suất cao thời gian trước chưa đến hạn thanh toán là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến lãi suất cho vay giảm chậm. Các nguồn vốn khác như cổ phiếu, trái phiếu, FDI tăng thấp, những khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản chưa được giải quyết căn cơ, triệt để nên đã khiến cho nguồn vốn phục vụ tăng trưởng tiếp tục tập trung vào tín dụng ngân hàng, tỷ lệ Tín dụng/GDP tăng cao là yếu tố tiềm ẩn rủi ro đối với an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ.
Về tỷ giá, trong bối cảnh FED liên tục nâng lãi suất điều hành, chỉ số đo lường sức mạnh USD quốc tế cũng tăng mạnh, gây áp lực mất giá lên các đồng tiền trong đó có VND. Việc NHNN giảm mạnh lãi suất điều hành đối với VND dẫn đến tình trạng lãi suất USD cao hơn nhiều lãi suất VND trên thị trường liên ngân hàng, qua đó, đã và đang gây áp lực lớn lên tỷ giá USD/VND.
Với thanh khoản hệ thống TCTD được đảm bảo và còn nhiều dư địa tăng trưởng tín dụng, mặc dù ngành Ngân hàng đã nỗ lực đẩy mạnh mọi biện pháp để cung ứng tín dụng đối với nền kinh tế song việc hấp thụ vốn tín dụng còn gặp nhiều khó khăn.
Qua theo dõi thực tế, phản ánh kiến nghị của doanh nghiệp và qua các hội nghị, hội thảo, nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ các yếu tố như: (1) Cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh, tiêu dùng giảm; (2) Một số nhóm khách hàng có nhu cầu nhưng chưa đáp ứng điều kiện vay vốn/hoặc còn vướng mắc về thủ tục pháp lý, nhất là nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa do quy mô vốn nhỏ, vốn chủ sở hữu và năng lực tài chính, quản trị điều hành hạn chế; thiếu phương án kinh doanh khả thi...; (3) Tác động từ khả năng hấp thụ tín dụng của nhóm doanh nghiệp bất động sản; (4) Sau thời gian nền kinh tế gặp nhiều khó khăn kéo dài; mức độ rủi ro bị đánh giá cao hơn, khi hoạt động của doanh nghiệp khó chứng minh hiệu quả (chi phí đầu vào, nguyên vật liệu nhập khẩu cao, thị trường đầu ra, đơn hàng, doanh thu giảm...) khiến cho TCTD rất khó khăn trong quyết định cho vay để đảm bảo chất lượng tín dụng, an toàn hoạt động.
Từ những khó khăn, thách thức trong công tác điều hành chính sách tiền tệ nêu trên, bên cạnh các giải pháp về tiền tệ, tín dụng của ngành ngân hàng, việc triển khai đồng bộ các giải pháp để tăng khả năng hấp thụ vốn của người dân, doanh nghiệp là rất cần thiết để TCTD có điều kiện cung ứng vốn, mở rộng tín dụng đối với nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng như:
(i) Các giải pháp kích cầu đầu tư, tiêu dùng, thúc đẩy các động lực tăng trưởng kinh tế;
(ii) Các giải pháp phát triển các loại thị trường (ổn định, khơi thông dòng vốn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, xử lý các vấn đề tồn tại của thị trường BĐS);
(iii) Các giải pháp nâng cao năng lực, khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp (từ cả phía doanh nghiệp, cũng như các cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn thông qua các Quỹ bảo lãnh DNNVV, Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa).
Bên cạnh các giải pháp nêu trên, chúng ta cũng cần nhìn nhận việc triển khai một số chương trình tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ chưa được như kỳ vọng, nguyên nhân chủ yếu do:
(1) Đối với Chương trình hỗ trợ lãi suất 2%, khách hàng không đáp ứng được điều kiện là đối tượng được hỗ trợ lãi suất; tâm lý e ngại công tác thanh, kiểm tra, cân nhắc giữa lợi ích từ hỗ trợ lãi suất 2% và chi phí bỏ ra khi nhận hỗ trợ lãi suất; khó đánh giá về khả năng “phục hồi” theo Nghị quyết 43/2022/QH15; một số khách hàng lựa chọn vay USD để tận dụng lợi thế về lãi suất và nguồn thu bằng ngoại tệ; bối cảnh kinh tế - xã hội đã thay đổi so với thời điểm ban hành chính sách nên nhu cầu hỗ trợ của doanh nghiệp thay đổi…;
(2) Đối với Chương trình 120.000 tỷ đồng, các Ngân hàng Thương mại chưa có cơ sở để tiếp cận, thẩm định dự án do nhiều địa phương chưa phê duyệt danh mục dự án; về phía khách hàng mua nhà do tình hình kinh tế, sản xuất kinh doanh khó khăn, thu nhập sụt giảm nên nhu cầu về mua nhà ở chưa phải là nhu cầu ưu tiên trong thời điểm hiện tại; về phía chủ đầu tư, có nhiều dự án đã hoàn thành xây dựng, hoặc được đầu tư từ nguồn vốn ngân sách, hoặc không có nhu cầu vay vốn.
Nợ xấu đã xử lý được một bước quan trọng nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với an toàn, hiệu quả hoạt động của các TCTD. Việc xử lý nợ xấu phụ thuộc nhiều vào các điều kiện kinh tế vĩ mô và thị trường; tuy nhiên, kinh tế trong nước và hệ thống ngân hàng, doanh nghiệp thời gian qua đang chịu những tác động bất lợi, tiêu cực từ môi trường bên ngoài, đặc biệt là dịch bệnh COVID-19 đã làm suy giảm khả năng trả nợ của các hộ gia đình và doanh nghiệp, khiến nợ xấu có xu hướng gia tăng. Bên cạnh đó, việc kiểm soát và xử lý hiệu quả nợ xấu rất cần có sự vào cuộc tích cực và đồng bộ của các bộ, ngành, địa phương.
Trong bối cảnh rủi ro toàn cầu tăng lên và nhiều quốc gia trên thế giới liên tiếp bị hạ bậc xếp hạng do ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế đều nâng triển vọng của Việt Nam lên “tích cực” trong năm 2021 và tiếp tục nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia Việt Nam trong năm 2022.
Cuối tháng 8/2023 Tạp chí Tài chính toàn cầu (Global Finance Magazine) tôn vinh các Thống đốc ngân hàng trung ương trên thế giới giành được xếp hạng A+, A hoặc A- trong Báo cáo đánh giá và xếp hạng các Thống đốc ngân hàng trung ương năm 2023. Các Thống đốc ngân hàng trung ương được xếp hạng từ A tới F dựa trên các tiêu chí thành công của việc kiểm soát lạm phát, đạt được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ổn định đồng tiền và điều hành lãi suất (Xếp hạng A tương ứng với việc điều hành xuất sắc, xếp hạng F là tương ứng với việc điều hành không đạt được mục tiêu).
Theo đó, các Thống đốc ngân hàng trung ương được xếp hạng A+ (mức cao nhất) là: Shri Shaktikanta Das (Ấn Độ); Thomas J. Jordan (Thụy Sĩ) và Bà Nguyễn Thị Hồng (Việt Nam). Điều đó cho thấy hoạt động điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá rất cao.