Với có 468/477 đại biểu tham gia biểu quyết, Quốc hội đã thông qua Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi) trong phiên họp ngày 22/6. Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi) sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2024.
Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi) do Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy trình bày trước khi Quốc hội biểu quyết cho biết, trên cơ sở ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Cơ quan chủ trì thẩm tra phối hợp chặt chẽ với Cơ quan chủ trì soạn thảo và các cơ quan hữu quan tiếp thu, chỉnh lý, rà soát kỹ lưỡng nội dung và kỹ thuật lập pháp của dự thảo Luật; xin ý kiến Chính phủ và lấy ý kiến các cơ quan có liên quan. Ngày 21/6/2023, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có Báo cáo đầy đủ số 501/BC-UBTVQH15 giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi).
Về bố cục dự thảo Luật: Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cho biết, có ý kiến đề nghị kết cấu một chương riêng về quản lý nhà nước; sắp xếp lại các điều, khoản tại chương về điều khoản thi hành; chỉnh lý kỹ thuật tại các Điều 51, 52 của dự thảo Luật.
Tiếp thu ý kiến xác đáng của đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật đã thiết kế Chương VII Quản lý nhà nước về giao dịch điện tử bao gồm: Quy định về nội dung quản lý nhà nước về giao dịch điện tử (Điều 49) và trách nhiệm quản lý nhà nước về giao dịch điện tử (Điều 50); đồng thời bổ sung trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về giao dịch điện tử trong lĩnh vực cơ yếu, chữ ký số chuyên dùng công vụ.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy, đối với ý kiến đề nghị sắp xếp lại các điều, khoản tại Chương VIII, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu và chỉnh lý như: Sắp xếp lại các điều tại Chương VIII Điều khoản thi hành theo thứ tự sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều của các luật có liên quan; Hiệu lực thi hành; Quy định chuyển tiếp; Không quy định việc sửa đổi, bổ sung Điều 49 Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam mà sửa đổi quy định này tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam và Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam (đang được tiếp thu, chỉnh lý, trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 5).
Có ý kiến đề nghị cân nhắc bỏ điều quy định về nguyên tắc chung; đồng thời chuyển một số quy định về nguyên tắc chung sang điều quy định về chính sách phát triển giao dịch điện tử. Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo bỏ điều quy định về nguyên tắc chung, biên tập lại khoản 1 nguyên tắc chung và chuyển lên Điều 1 Phạm vi điều chỉnh, đồng thời lồng ghép các nội dung của nguyên tắc chung vào khoản 1, 3, 4 Điều 4 về chính sách phát triển giao dịch điện tử.
Về giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu: Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về công chứng, chứng thực thông điệp dữ liệu và chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự thông điệp dữ liệu hoặc giao Chính phủ quy định nội dung này; bổ sung quy định chuyển tiếp về nội dung pháp luật liên quan đến công chứng, chứng thực để bảo đảm phù hợp với nguyên tắc áp dụng pháp luật trong giao dịch điện tử; nghiên cứu sửa đổi Luật Lưu trữ và các văn bản hướng dẫn thi hành theo hướng quy định về tiêu chuẩn kho lưu trữ số và quy trình nghiệp vụ đối với lưu trữ tài liệu điện tử.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy cho biết, phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật chỉ quy định việc thực hiện giao dịch bằng phương tiện điện tử, không quy định nội dung, điều kiện, phương thức của giao dịch. Để thống nhất với phạm vi điều chỉnh, các quy định về công chứng, chứng thực, hợp pháp hóa lãnh sự, lưu trữ điện tử tại các điều 9, 13 và 19 của dự thảo Luật chỉ dẫn chiếu mà không quy định cụ thể để tránh chồng chéo, trùng lặp trong hệ thống pháp luật. “Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin giữ nội dung này như dự thảo Luật và không bổ sung quy định chuyển tiếp liên quan đến công chứng, chứng thực tại Điều 53”, ông Lê Quang Huy báo cáo.
Đối với đề nghị nghiên cứu sửa đổi Luật Lưu trữ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng hiện nay dự án Luật Lưu trữ (sửa đổi) đã được Quốc hội quyết định đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023 và dự kiến trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6 (10/2023), trong đó sẽ có các quy định cụ thể để điều chỉnh về lưu trữ số, lưu trữ điện tử phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Luật Lưu trữ và pháp luật về giao dịch điện tử.
Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định công nhận giá trị sử dụng hay giá trị pháp lý của các văn bản đã được chuyển đổi dữ liệu; đề nghị làm rõ chủ thể có quyền chuyển đổi giữa văn bản giấy và thông điệp dữ liệu. Đối với vấn đề công nhận giá trị pháp lý của việc chuyển đổi dữ liệu, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo như sau: Dự thảo Luật chỉ quy định các yêu cầu kỹ thuật, cách thức chuyển đổi giữa văn bản giấy và thông điệp dữ liệu phải đáp ứng. Qua nghiên cứu, rà soát cho thấy, giá trị sử dụng hay giá trị pháp lý của văn bản chuyển đổi cũng như cơ quan, tổ chức chuyển đổi đã được quy định tại một số văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Chẳng hạn như văn bản quy phạm pháp luật trên Công báo điện tử là văn bản chính thức và có giá trị như văn bản gốc; chứng từ điện tử có giá trị là bản gốc.
Ngoài ra, chủ thể thực hiện chuyển đổi cũng được quy định tại các văn bản này phù hợp với từng loại thông điệp dữ liệu (ví dụ như việc chuyển đổi hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính điện tử thành văn bản giấy do tổ chức, cá nhân khởi tạo và cơ quan có thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính thực hiện; việc chuyển đổi hoá đơn điện tử sang bản giấy do người mua, người bán thực hiện…). Do đó, để bảo đảm phù hợp với phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật, khoản 3 Điều 12 chỉ dẫn chiếu đến quy định của pháp luật có liên quan, đồng thời giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này.
Về chữ ký điện tử (mục 1 Chương III): Có ý kiến đề nghị bổ sung các loại hình chữ ký điện tử khác ngoài chữ ký số đáp ứng đủ các điều kiện để bảo đảm chữ ký an toàn, giá trị pháp lý. Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, theo khoản 11 Điều 3 của dự thảo Luật, chữ ký điện tử được sử dụng để xác nhận chủ thể ký và xác nhận sự chấp thuận của chủ thể đó đối với thông tin trong thông điệp dữ liệu được ký và phải được tạo lập dưới dạng dữ liệu điện tử gắn liền hoặc kết hợp một cách lô gíc với thông điệp dữ liệu thì lúc đó mới được coi là chữ ký điện tử.
“Hiện nay, các hình thức xác nhận khác bằng phương tiện điện tử như chữ ký scan, chữ ký hình ảnh, mật khẩu sử dụng một lần (OTP), tin nhắn (SMS),… không phải là chữ ký điện tử. Tuy nhiên, để phù hợp với thực tiễn triển khai nghiệp vụ trong ngành Ngân hàng, hải quan,… và nhằm thúc đẩy giao dịch điện tử, khoản 4 Điều 22 của dự thảo Luật đã quy định việc sử dụng các hình thức xác nhận này được thực hiện theo quy định pháp luật có liên quan”, ông Lê Quang Huy cho biết.
Về giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử: Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể, chi tiết hơn dịch vụ lưu trữ và xác nhận tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu để tránh trùng lặp chức năng, nhiệm vụ của Bộ Thông tin và Truyền thông với Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (về chứng thực).
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, dịch vụ lưu trữ và xác nhận tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu quy định tại khoản 1 Điều 32 là việc bảo đảm thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ mà không bị chỉnh sửa, xoá trên môi trường điện tử. Trong khi đó pháp luật về chứng thực, công chứng hiện hành quy định các hoạt động chứng thực bản sao từ bản chính; chứng thực chữ ký trong giấy tờ; chứng thực hợp đồng, giao dịch (về thời gian, địa điểm, năng lực hành vi dân sự); công chứng, chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng trên môi trường thực. Do đó, hai loại dịch vụ này là khác nhau và quy định trong dự thảo Luật về chức năng, nhiệm vụ của Bộ Thông tin và Truyền thông liên quan đến nội dung này sẽ không chồng lấn chức năng, nhiệm vụ với Bộ Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về hoạt động chứng thực.
Về quản lý dữ liệu, cơ sở dữ liệu dùng chung (Điều 40): Có ý kiến đề nghị làm rõ cơ sở dữ liệu của bộ, ngành, địa phương có bao gồm cơ sở dữ liệu của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán nhà nước, cơ quan của Quốc hội, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hay không; trên cơ sở đó có quy định về việc quản lý cơ sở dữ liệu cho phù hợp.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, cơ sở dữ liệu của bộ, ngành, địa phương không bao gồm cơ sở dữ liệu của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán nhà nước, cơ quan của Quốc hội, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Các cơ quan, tổ chức này có thể xây dựng, triển khai các cơ sở dữ liệu ngành để chia sẻ, kết nối, khai thác, sử dụng chung với các cơ quan nhà nước khác phù hợp với Khung kiến trúc tổng thể quốc gia số được quy định tại Điều 42 dự thảo Luật.
Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu và chỉnh lý điểm đ khoản 3 Điều 40 theo hướng giao Chính phủ quy định chi tiết việc chia sẻ cơ sở dữ liệu quốc gia với cơ sở dữ liệu của cơ quan khác của Nhà nước, trong đó có các cơ quan nêu trên để bảo đảm tính linh hoạt, phù hợp với nguồn lực và yêu cầu thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện trong các ngành, lĩnh vực.
Có ý kiến đề nghị chỉnh lý khoản 5 như: “Nhà nước bảo đảm kinh phí xây dựng và duy trì cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu của bộ, ngành, địa phương”; đề nghị làm rõ Nhà nước có bảo đảm kinh phí xây dựng và duy trì cơ sở dữ liệu của cơ quan khác của Nhà nước hay không để bảo đảm thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển giao dịch điện tử trong toàn bộ các cơ quan nhà nước.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu của bộ, ngành, địa phương giữ vai trò rất quan trọng trong hoạt động hành chính, kinh tế - xã hội. Để xây dựng và duy trì các cơ sở dữ liệu này đòi hỏi một nguồn kinh phí lớn từ ngân sách Nhà nước và các nguồn hợp pháp khác của tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp. Kinh nghiệm các nước cũng cho thấy doanh nghiệp đóng góp một phần kinh phí đáng kể trong việc xây dựng và duy trì cơ sở dữ liệu. Do đó, quy định Nhà nước bảo đảm kinh phí một phần hoặc toàn bộ kinh phí xây dựng và duy trì cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu của bộ, ngành, địa phương, cơ quan khác của Nhà nước như khoản 5 Điều 40 dự thảo Luật là phù hợp.
Về trách nhiệm quản lý nhà nước về giao dịch điện tử (Điều 50): Có ý kiến đề nghị chỉnh lý khoản 2, 3, 4 Điều 50 để đảm bảo rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong hoạt động giao dịch điện tử, phù hợp với hệ thống pháp luật có liên quan. Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo chỉnh lý khoản 2, 3 và 4 như: Bộ Thông tin và Truyền thông là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, thực hiện quản lý nhà nước về giao dịch điện tử. Bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện quản lý nhà nước về giao dịch điện tử trong lĩnh vực, địa bàn thuộc phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được phân công.
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thực hiện quản lý Nhà nước về giao dịch điện tử trong lĩnh vực cơ yếu, chữ ký số chuyên dùng công vụ trên cơ sở tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chữ ký số theo quy định của pháp luật”.
Sau khi Quốc hội nghe Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi), Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi).