Thị trường xuất khẩu tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn khiến cho kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản 4 tháng đầu năm chỉ đạt 15,66 tỷ USD, giảm 13,3% so với cùng kỳ năm trước; xuất siêu 2,51 tỷ USD, giảm 37,7%.
Thông tin từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) vừa cho biết, trong tháng 4, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản (NLTS) ước đạt 4,54 tỷ USD, giảm 8,3% so với cùng kỳ năm trước; giảm 1,2 triệu USD so với tháng 3 (4,66 tỷ USD). Tính tổng 4 tháng, xuất khẩu NLTS đạt 15,66 tỷ USD, giảm 13,3% so với CKNT; xuất siêu 2,51 tỷ USD, giảm 37,7%.
Ngoài các nhóm hàng nông sản và chăn nuôi tăng (nông sản đạt 2,33 tỷ USD, tăng 24%; chăn nuôi đạt 41 triệu USD, tăng 46,7%); còn lại, các mặt hàng thủy sản, lâm sản đều giảm, cụ thể: thủy sản đạt 800 triệu USD, giảm 28,6%; lâm sản đạt 1,2 tỷ USD, giảm 29,8%.
Một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao hơn cùng kỳ năm trước, như: cà phê 1,7 tỷ USD, tăng 2,5%; rau quả 1,39 tỷ USD, tăng 19,4%; hạt điều 942 triệu USD, tăng 3,4%; thịt, phụ phẩm 45 triệu USD, tăng 63,7%..., nhất là gạo đạt 1,56 tỷ USD, tăng 54,5%.
Tuy nhiên, cũng có những mặt hàng có giá trị xuất khẩu giảm, như: cao su 684,8 triệu USD, giảm 20,1%; chè đạt 50 triệu USD, giảm 5,8%; hồ tiêu đạt 325 triệu USD, giảm 10,2%; sắn và sản phẩm sắn đạt 453 triệu USD, giảm 12,1%; gỗ và sản phẩm gỗ 3,91 tỷ USD, giảm 30,4%; mây, tre, cói thảm 245 triệu USD, giảm 29,2% và cá tra đạt 558 triệu USD, giảm 39,9%; tôm đạt 843 triệu USD, giảm 39,6%
Đáng ngại, giá xuất khẩu bình quân một số nông sản xuất khẩu chính giảm, cụ thể: hồ tiêu 5.846 USD/tấn, giảm 34,3%; phân bón các loại 421 USD/tấn, giảm 33,6%; cao su 1.392 USD/tấn, giảm 21,2%; sắn và sản phẩm từ sắn 384 USD/tấn, giảm 11,2%.... Riêng giá gạo đạt 526 USD/tấn, tăng 7,6%; cà phê đạt 2.261 USD/tấn, tăng 0,7%.
Về thị trường xuất khẩu, ngoài thị trường thuộc khu vực châu Á đạt 7,58 tỷ USD, tăng 2,7%, 4 tháng đầu năm, giá trị xuất khẩu NLTS tới các thị trường khác đầu giảm sâu.
Cụ thể, thị trường châu Mỹ đạt 3,28 tỷ USD, giảm 39,6%; châu Âu đạt 1,93 tỷ USD, giảm 13%; châu Phi đạt 223 triệu USD, giảm 21,2%; châu Đại Dương đạt 216 triệu USD, giảm 31%.
Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản tiếp tục duy trì là 3 thị trường xuất khẩu NLTS lớn nhất; giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm tỷ trọng 20,9%, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước; Hoa Kỳ chiếm 18,9%, giảm 40,5% và Nhật Bản chiếm 8,1%, tăng 0,8%.
Theo Bộ NN&PTNT, nguyên nhân tổng kim ngạch xuất khẩu NLTS giảm và thị trường xuất khẩu tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn là do kinh tế toàn cầu năm 2023 dự báo tăng trưởng chậm lại; ảnh hưởng từ xung đột quân sự Nga - Ukraine; lạm phát cao tại một số nước trên thế giới, trong đó có những thị trường nhập khẩu nông sản lớn của Việt Nam (Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc...), làm giảm nhu cầu tiêu dùng, nhu cầu nhập khẩu (sức mua, cầu giảm).
Bên cạnh đó, nhiều nước đẩy mạnh xuất khẩu nông sản và tăng cung trên thị trường; trong khi lượng hàng tồn nhập khẩu 2022 của một số thị trường tiêu thụ lớn như Hoa Kỳ, EU… còn lớn khiến, nhiều doanh nghiệp chưa ký được đơn hàng xuất khẩu mới. Giá nguyên liệu vật tư đầu vào phục vụ sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản biến vẫn đang ở mức cao, ảnh hưởng đến điều tiết, quản trị sản xuất kinh doanh và tác động đến thu nhập của nông dân, lợi nhuận của doanh nghiệp.
Theo lãnh đạo Bộ NN&PTNT, thời gian tới, cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển thị trường, tháo gỡ rào cản, tạo thuận lợi cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, giảm thiểu tác động tiêu cực của dịch bệnh và biến động thị trường trong nước và thế giới.
Bộ sẽ tổ chức Đoàn công tác làm việc với 2 tỉnh: Vân Nam và Quảng Tây (Trung Quốc) để đẩy mạnh xúc tiến thương mại nông sản; Diễn đàn “970” kết nối giao thương, xúc tiến tiêu thụ rau gia vị sang thị trường EU; Chuẩn bị tổ chức chuỗi sự kiện quảng bá nông sản chủ lực của Việt Nam tại Vương quốc Anh (nhân dịp kỷ niệm 50 năm quan hệ Việt Nam - Anh).
- Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực sau 4 tháng đầu năm 2023: Gỗ 3,91 tỷ USD, giảm 30,4%; Cà phê 1,7 tỷ USD, tăng 2,5%; Gạo 1,56 tỷ USD, tăng 54,5%; Rau quả 1,39 tỷ USD, tăng 19,4%; Hạt điều 942 triệu USD, tăng 3,4%; Tôm 843 triệu USD, giảm 39,6%; Cao su 684,8 triệu USD, giảm 20,1%; Cá tra 558 triệu USD, giảm 39,9%; Sắn 453 triệu USD, giảm 12,1%; Hồ tiêu 325 triệu USD, giảm 10,2%
- Thị trường XK: Châu Á 7,58 tỷ USD, tăng 2,7%; Châu Mỹ 3,28 tỷ USD, giảm 39,6%; Châu Âu 1,93 tỷ USD, giảm 13%; Châu Phi 223 triệu USD, giảm 21,2%; Châu Đại Dương 216 triệu USD, giảm 31%.
- Tỷ trọng XK: Trung Quốc 20,9%, tăng 3,3%; Hoa Kỳ 18,9%, giảm 40,5%; Nhật Bản 8,1%, tăng 0,8%.