Kinh tế vĩ mô tiếp tục xu hướng tích cực, tỷ giá ổn định, lãi suất liên ngân hàng giảm, chứng khoán hồi phục tích cực, FED và BOE giữ nguyên lãi suất… là những thông tin kinh tế, tài chính, tiền tệ nổi bật trong nước và thế giới tuần qua.
Ngày 4/11, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10/2023, nhận định, kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2023 tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực.
Về tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2023, phiên họp thống nhất đánh giá, trong bối cảnh quốc tế, trong nước rất khó khăn, kinh tế nước ta tiếp tục xu hướng tích cực trên nhiều lĩnh vực, duy trì đà "tháng sau tốt hơn tháng trước, quý sau tốt hơn quý trước", cơ bản đạt được mục tiêu tổng quát đề ra, với nhiều điểm nổi bật.
Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng được thúc đẩy, các cân đối lớn được bảo đảm. CPI bình quân 10 tháng tăng 3,2%, thấp hơn nhiều mục tiêu đề ra (khoảng 4,5%), tạo dư địa cho các chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa thúc đẩy tổng cầu và tăng trưởng kinh tế, cũng như các chính sách điều chỉnh giá khác.
Thị trường tiền tệ, tỉ giá cơ bản ổn định; mặt bằng lãi suất tiếp tục xu hướng giảm (giảm khoảng 2% so cuối năm 2022); đồng tiền Việt Nam mất giá ít nhất so với khu vực.
Xuất nhập khẩu tiếp tục đà tăng trở lại. Trong tháng 10, xuất khẩu tăng 5,9%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng mạnh 15,1%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 3% so với cùng kỳ; nhập khẩu tăng 5,2%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 8,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 3,5%; xuất siêu 3 tỷ USD. Tính chung 10 tháng, xuất khẩu đạt 291,28 tỷ USD, nhập khẩu đạt 266,67 tỷ USD; xuất siêu trên 24,6 tỷ USD.
Thu ngân sách nhà nước (NSNN) 10 tháng đạt gần 1,4 triệu tỷ đồng, bằng 86,3% dự toán, trong khi miễn, giảm, gia hạn 163,8 nghìn tỷ đồng (trong đó, miễn, giảm khoảng 57,3 nghìn tỷ đồng).
Nợ công, nợ chính phủ, bội chi NSNN được kiểm soát tốt. Đầu tư phát triển tiếp tục đạt kết quả tích cực, là một động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Giải ngân vốn đầu tư công 10 tháng đạt gần 401,9 nghìn tỷ đồng, bằng 56,74% kế hoạch, tăng 5,5% và số tuyệt đối khoảng 104 nghìn tỷ đồng so với cùng kỳ.
Tổng vốn FDI đăng ký đạt hơn 25,76 tỷ USD, tăng 14,7% so với cùng kỳ (trong đó vốn đăng ký cấp mới đạt 15,29 tỷ USD, tăng 66,1%; vốn đăng ký điều chỉnh đạt 5,33 tỷ USD, giảm 39% và vốn góp, mua cổ phần đạt 5,13 tỷ USD, tăng 35,4%). Tổng vốn FDI thực hiện 10 tháng đạt 18 tỷ USD, tăng 2,4% (tăng dần qua hàng tháng: 5 tháng giảm 0,8%, 6 tháng tăng 0,5%; 7 tháng tăng 0,8%, 8 tháng tăng 1,3%, 9 tháng tăng 2,2%)…
Về tồn tại, hạn chế, khó khăn, thách thức, Chính phủ chỉ ra: Rủi ro lạm phát còn cao; thu NSNN 10 tháng giảm so với cùng kỳ; tăng trưởng tín dụng chưa đáp ứng yêu cầu; các gói tín dụng triển khai còn hạn chế; nợ xấu có xu hướng gia tăng; điều hành chính sách tiền tệ tiếp tục gặp khó khăn trong bối cảnh nhiều nước tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt; cầu trên các thị trường lớn, truyền thống suy giảm; sản xuất công nghiệp phục hồi chậm; sản xuất kinh doanh, hoạt động của doanh nghiệp còn gặp khó khăn.
Về phương hướng, nhiệm vụ thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ nêu rõ yêu cầu tiếp tục giữ vững mục tiêu tổng quát đề ra. Đó là, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, đảm bảo các cân đối lớn; kiểm soát tốt nợ công, nợ chính phủ, bội chi… Đề cập đến các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành và địa phương thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau: Thúc đẩy các động lực tăng trưởng về đầu tư, xuất khẩu, tiêu dùng; đẩy mạnh giải ngân, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ khu vực Nhà nước, có các giải pháp đột phá, tạo thuận lợi thu hút các nguồn lực đầu tư của toàn xã hội, trong đó đẩy mạnh thu hút FDI có chọn lọc, có quy mô lớn, công nghệ cao; tiếp tục thực hiện chính sách tiền chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, hài hòa với điều hành chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm và các chính sách khác; thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, 3 chương trình mục tiêu quốc gia; đẩy nhanh tiến độ phê duyệt quy hoạch, phấn đấu giải ngân ít nhất 95% kế hoạch vốn năm 2023; tích cực phục hồi, phát triển các thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản; khẩn trương rà soát, đánh giá tình hình thực hiện Nghị định số 08 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung và ngưng hiệu lực thi hành một số điều tại các nghị định quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế…
Thị trường ngoại tệ: Trong tuần từ từ ngày 30/10 –3/11, tỷ giá trung tâm được Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh theo xu hướng giảm. Chốt ngày 3/11, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 24.084 VND/USD, giảm 15 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Ngân hàng Nhà nước tiếp tục niêm yết tỷ giá mua giao ngay ở mức 23.400 VND/USD. Tỷ giá bán giao ngay phiên cuối tuần được niêm yết ở mức 25.238 VND/USD, thấp hơn 50 đồng so với trần tỷ giá.
Tỷ giá liên ngân hàng tiếp tục tăng - giảm luân phiên trong tuần qua. Kết thúc phiên ngày 3/11, tỷ giá liên ngân hàng đóng cửa tại 24.535 VND/USD, giảm 40 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá trên thị trường tự do vẫn ít biến động trong tuần qua. Chốt phiên ngày 3/11, tỷ giá tự do đi ngang ở chiều mua vào trong khi giảm 30 đồng ở chiều bán ra so với phiên cuối tuần trước đó, giao dịch tại 24.550 VND/USD và 24.600 VND/USD.
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng: Tuần từ ngày 30/10 –3/11, lãi suất VND liên ngân hàng giảm ở tất cả các kỳ hạn từ 1 tháng trở xuống. Chốt ngày 3/11, lãi suất VND liên ngân hàng giao dịch quanh mức: Qua đêm là 1,0% (-0,36 đpt); 1 tuần là 1,32% (-0,36 đpt); 2 tuần là 1,60% (-0,34 đpt); 1 tháng là 2,22% (-0,38 đpt).
Lãi suất USD liên ngân hàng biến động theo xu hướng giảm ở tất cả các kỳ hạn. Phiên cuối tuần, lãi suất USD liên ngân hàng đóng cửa ở mức: Qua đêm là 5,03% (-0,07 đpt); 1 tuần là 5,13% (-0,08 đpt); 2 tuần là 5,24% (-0,07 đpt) và 1 tháng là 5,34% (-0,06 đpt).
Thị trường mở: Tuần qua, trên kênh cầm cố, Ngân hàng Nhà nước chào thầu ở kỳ hạn 7 ngày với khối lượng là 5.000 tỷ đồng, lãi suất ở mức 4,0%. Không có khối lượng trúng thầu, không có khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố.
Ngân hàng Nhà nước tiếp tục chào thầu tín phiếu Ngân hàng Nhà nước với kỳ hạn 28 ngày, đấu thầu lãi suất. Có 56.750 tỷ đồng tín phiếu trúng thầu, lãi suất ở mức 1,50% (+0,05 đpt so với cuối tuần trước đó). Có 46.899,8 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn. Như vậy, Ngân hàng Nhà nước hút ròng 9.850,2 tỷ đồng từ thị trường, đưa khối lượng tín phiếu lưu hành trên thị trường tăng lên mức 203.199,2 tỷ đồng.
Thị trường trái phiếu: Ngày 1/11, Kho bạc Nhà nước chào thầu 5.000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ (TPCP), khối lượng trúng thầu là 3.850 tỷ đồng, tương đương 77%. Trong đó, kỳ hạn 5 năm huy động được 350 tỷ đồng/1.500 tỷ đồng chào thầu; kỳ hạn 10 năm huy động được toàn bộ 2.000 tỷ đồng chào thầu và kỳ hạn 15 năm huy động được toàn bộ 1.500 tỷ đồng chào thầu.
Lãi suất trúng thầu các kỳ hạn lần lượt tại: 5 năm là 1,64% (-0,01 đpt), 10 năm là 2,45% (+0,05 đpt), 15 năm là 2,68% (+0,05 đpt).
Trong tuần này, ngày 8/11, Kho bạc Nhà nước chào thầu 3.500 tỷ đồng TPCP, trong đó kỳ hạn 5 năm và 20 năm chào thầu 500 tỷ đồng mỗi kỳ hạn, kỳ hạn 10 năm chào thầu 1.000 tỷ đồng và 15 năm chào thầu 1.500 tỷ đồng.
Thị trường chứng khoán: Tuần từ qua, thị trường chứng khoán giảm điểm mạnh 2 phiên đầu tuần nhưng phục hồi tích cực 3 phiên cuối. Chốt phiên ngày 3/11, VN-Index đứng ở mức 1.076,78 điểm, tăng 16,16 điểm (+1,52%) so với cuối tuần trước đó; HNX-Index mất 0,29 điểm (-0,13%) về 217,75 điểm; UPCom-Index thêm 1,06 điểm (+1,28%) lên 84,16 điểm.
Thanh khoản thị trường ở mức thấp với giá trị giao dịch trung bình trên 15.200 tỷ đồng/phiên, giảm nhẹ so với mức khoảng 15.800 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Khối ngoại tiếp tục bán ròng hơn 470 tỷ đồng trên cả 3 sàn.
Ngân hàng Dự trữ liên bang Mỹ (FED) không thay đổi lãi suất trong cuộc họp đầu tháng 11/2023, bên cạnh đó nước Mỹ cũng ghi nhận một số thông tin kinh tế đáng chú ý.
Trong cuộc họp ngày 1/11, Ủy ban Thị trường mở Liên bang (FOMC) - thuộc FED, nhận định kinh tế Mỹ tăng trưởng mạnh trong quý III/2023 vừa qua, thị trường lao động vẫn mạnh mẽ với tỷ lệ thất nghiệp đang được duy trì ở mức thấp, lạm phát vẫn ở mức cao.
Bên cạnh đó, FOMC cho rằng, sự thắt chặt điều kiện tín dụng cho các hộ tiêu dùng và doanh nghiệp dường như đang tác động lên hoạt động kinh tế cũng như lạm phát, và mức độ tác động vẫn chưa rõ ràng. Cơ quan này khẳng định tập trung cao độ vào rủi ro lạm phát, nhằm đưa PCE lõi về mức 2,0% trong dài hạn.
Theo đó, FOMC quyết định duy trì lãi suất ở mức 5,25% - 5,50%, là kỳ họp thứ 2 ngừng tăng lãi suất sau khi đã tăng 11 lần liên tiếp trước đó. FOMC sẽ tiếp tục quan sát các dữ liệu kinh tế và sẵn sàng điều chỉnh quan điểm chính sách tiền tệ cho phù hợp, nếu rủi ro xuất hiện có thể cản trở quá trình đạt được mục tiêu.
Liên quan đến kinh tế Mỹ, Viện Quản lý cung ứng ISM khảo sát PMI lĩnh vực sản xuất của nước này giảm xuống mức 46,7% trong tháng 10/2023, trái với dự báo đi ngang ở mức 49,0% như tháng trước đó.
Tiếp theo, Conference Board khảo sát cho biết Chỉ số Niềm tin tiêu dùng tại Mỹ ở mức 102,6 điểm trong tháng 10/2023, giảm nhẹ từ mức 104,3 điểm của tháng trước đó song vẫn cao hơn so với mức 100,5 điểm theo dự báo.
Trong tháng 10, nước Mỹ tạo ra 150 nghìn việc làm phi nông nghiệp mới, thấp hơn nhiều so với mức 297 nghìn của tháng trước đó và đồng thời thấp hơn mức 178 nghìn theo dự báo. Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ tháng 10 ở mức 3,9%, tăng nhẹ lên từ mức 3,8% của tháng 9/2023.
Ngân hàng trung ương Anh (BOE) giữ nguyên lãi suất, dự báo lạm phát sẽ giảm chậm. Trong cuộc họp ngày 2/11, BOE nhận định GDP của nước Anh trong quý III/2023 yếu hơn so với những gì mà cơ quan này kỳ vọng trong tháng 8/2023. Một số cuộc khảo sát cho thấy sản lượng kinh tế sẽ tiếp tục giảm nhẹ trong quý cuối năm.
Lạm phát tại Anh đã hạ nhiệt xuống mức 6,7% trong tháng 9/2023, tích cực hơn so với dự báo ở tháng 8/2023, được BOE dự báo sẽ tiếp tục giảm tốc còn 4,75% trong qúy IV/2023, 4,5% trong quý I/2024 và 3,75% trong quý II/2024.
BOE khẳng định mục tiêu đưa lạm phát xuống còn 2,0%, đồng thời hỗ trợ tăng trưởng kinh tế cùng thị trường lao động.
Nguồn: MSB Research