Ngày 26/10, bà Nada Choueiri, trưởng phái đoàn Nhật Bản của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), cho biết đồng Yên yếu có lợi cho nền kinh tế Nhật Bản khi thúc đẩy xuất khẩu, vượt trên mức tăng chi phí nhập khẩu.
Bà Nada Choueiri cũng kêu gọi Nhật Bản tăng lãi suất với tốc độ dần dần và chỉ lập ngân sách bổ sung khi có một cú sốc lớn xảy ra với nền kinh tế.
Bà nói trong một cuộc phỏng vấn: “Chúng tôi khuyên Ngân hàng trung ương Nhật Bản nên thận trọng, như họ đã làm cho đến nay, và nên tăng lãi suất từ từ” vì có sự không chắc chắn cao về triển vọng lạm phát.
Đồng Yên gần đây đã tiếp tục giảm giá so với đồng đô la Mỹ do kỳ vọng sự chênh lệch lãi suất giữa Mỹ và Nhật Bản sẽ vẫn còn lớn, khiến các nhà chức trách lo ngại về tác động lên các hộ gia đình do chi phí nhập khẩu tăng từ việc đồng Yên yếu.
Song bà Choueiri cho biết, lợi ích từ việc xuất khẩu tăng do đồng Yên yếu đã vượt lên trên, bù đắp mức tăng của chi phí nhập khẩu của Nhật Bản, một nền kinh tế "rất hướng ngoại". “Vì vậy, sự mất giá của đồng Yên đem lại lợi ích ròng đối với tăng trưởng ở Nhật Bản,” bà nói.
Sự sụt giảm của đồng Yên đã khiến Bộ trưởng Tài chính Katsunobu Kato phải đưa ra cảnh báo, ông cho biết những động thái "một chiều, nhanh chóng" gần đây của đồng Yên đòi hỏi phải "tăng cường cảnh giác".
Khi được hỏi liệu động thái nhanh chóng của đồng Yên có biện minh cho việc Tokyo can thiệp vào thị trường tiền tệ hay không, bà nói: “Điều quan trọng là việc thừa nhận rằng chính quyền Nhật Bản cam kết thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt”.
Sau khi thoát khỏi gói kích thích để kéo dài một thập kỷ vào tháng 3, Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) đã tăng lãi suất ngắn hạn lên 0,25% trong tháng 7 và báo hiệu quyết tâm tiếp tục tăng lãi suất nếu nền kinh tế đạt được tiến bộ trong việc đạt được mục tiêu lạm phát 2% một cách lâu dài.
Bà Choueiri cho biết, IMF kỳ vọng lạm phát của Nhật Bản sẽ đạt mức bền vững ở mức 2% với tốc độ tăng giá ngày càng được thúc đẩy bởi nhu cầu trong nước, đáp ứng điều kiện tiên quyết cho việc tăng lãi suất nhiều hơn.
Tuy nhiên, BOJ phải thận trọng trong việc tăng lãi suất do có nhiều rủi ro khác nhau, chẳng hạn như khả năng xuất khẩu bị ảnh hưởng do phân mảnh thương mại, nguy cơ tiêu dùng và tăng trưởng tiền lương suy yếu, và tác động từ đồng Yên tới lạm phát.
Bà nói: “Ưu tiên hàng đầu là duy trì sự phụ thuộc vào dữ liệu và phân tích tất cả dữ liệu có được, đồng thời thực hiện rất, rất từ tốn trong quá trình tăng lãi suất chính sách”.
BOJ được nhiều người kỳ vọng tại cuộc họp chính sách kéo dài hai ngày vào tuần tới sẽ giữ lãi suất chính sách ngắn hạn ổn định ở mức 0,25%. Hầu hết các nhà kinh tế được Reuters thăm dò đều dự đoán BOJ sẽ tăng lãi suất một lần nữa vào tháng 3 năm sau.
Trong báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới công bố tháng này, IMF dự báo tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản sẽ tăng lên 1,1% vào năm 2025 từ mức 0,3% trong năm nay do tiền lương thực tế tăng thúc đẩy tiêu dùng.
Bà Choueiri cho biết, Nhật Bản đã sớm nhìn thấy những dấu hiệu về việc tiêu dùng được củng cố và có "cơ hội thực sự" để đạt được mức tăng lương mạnh mẽ vào năm tới.
Tuy nhiên, với việc đồng Yên yếu đang đẩy chi phí nhiên liệu và thực phẩm lên cao, các chính trị gia đang muốn xoa dịu các hộ gia đình trước ảnh hưởng từ việc chi phí sinh hoạt tăng cao.
Thủ tướng Shigeru Ishiba đã cam kết lập ngân sách bổ sung để tài trợ cho một gói chi tiêu quy mô lớn khác sau cuộc tổng tuyển cử vào Chủ nhật.
Một bước đi như vậy sẽ đi kèm với nhiều gói chi tiêu ưu tiên được triển khai kể từ đại dịch COVID-19, bao gồm các khoản trợ cấp chung để hạn chế chi phí xăng dầu và tiện ích – những hành động làm tăng thêm khoản nợ công vốn đã rất lớn của Nhật Bản.
Bà Choueiri nói: “Việc thực hiện ngân sách bổ sung sẽ tốt hơn trong những thời điểm có những cú sốc lớn trong nền kinh tế mà các cơ chế ổn định tự động không thể giải quyết được”.
Bà nói, bất kỳ khoản tăng chi tiêu nào cũng phải được đến tới các lĩnh vực thúc đẩy tăng trưởng, chẳng hạn như cơ sở hạ tầng, và nhắm đến những người cần hỗ trợ thay vì trợ cấp bao trùm như những khoản trợ cấp nhằm ghìm chi phí nhiên liệu.