Mặt bằng lãi suất tiếp tục giảm, tín dụng khởi sắc hơn, áp lực nợ xấu ăng, NIM bị thu hẹp… là những điểm nhấn được dự báo trong “bức tranh” về ngành Ngân hàng nửa cuối năm 2023.
Trong báo cáo báo vĩ mô có tựa đề “Chắc tay chèo, vượt giông bão” vừa công bố, CTCK Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (VCBS) cho biết, tính đến cuối tháng 6/2023, tín dụng toàn hệ thống ghi nhận mức tăng trưởng 4,03%, thấp hơn đáng kể so với mức tăng trưởng 9,35% cùng kỳ năm 2022, do nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp và cá nhân yếu đi trong bối cảnh lãi suất cao, đơn hàng suy giảm, các thị trường đầu tư tài sản không thuận lợi.
Với dư địa cho vay toàn hệ thống dồi dào, việc Ngân hàng Nhà nước phân bổ hết room tín dụng ngay trong tháng 7/2023 sẽ giúp các tổ chức tín dụng (TCTD) chủ động mở rộng tín dụng từ nay đến hết năm 2023.
Liên quan đến tín dụng bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp, VCBS cho rằng, đã bớt tiêu cực trong ngắn hạn nhờ các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành, ví như: Nghị định 08 của Chính phủ bổ sung quy định đàm phán kéo dài thời hạn trái phiếu góp phần giúp doanh nghiệp giảm áp lực thanh toán trái phiếu đến hạn, góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn trong ngắn hạn; hay Thông tư 03 của Ngân hàng Nhà nước cho phép ngân hàng mua lại trái phiếu đã bán trong vòng 12 tháng…
Về lãi suất, sau khi NHNN thực hiện 4 lần giảm lãi suất điều hành, lãi suất huy động giảm nhanh và lãi suất cho vay đã ghi nhận giảm khoảng 1% tại các khoản vay phát sinh mới, tuy nhiên, thời điểm giảm của các khoản vay hiện hữu sẽ có độ trễ 3-6 tháng so với lãi suất huy động. Đáng chú ý, mặt bằng lãi suất đang hạ nhiệt trong nửa cuối quý II/2023 được kỳ vọng sẽ tiếp tục giảm trong nửa cuối năm 2023.
Nhóm ngân hàng thương mại nhà nước ghi nhận mức lãi suất cho vay tăng ít hơn nhóm ngân hàng tư nhân trong quý I/2023 do sớm thực hiện giảm lãi suất hỗ trợ nền kinh tế. Lãi suất đầu ra điều chỉnh giảm nhanh kể từ quý II/2023 khiến Tỷ lệ thu nhập lãi thuần (NIM) nhóm ngân hàng này dự kiến duy trì ở mức thấp.
Sau các quyết định giảm lãi suất điều hành, lãi suất tiền gửi có kỳ hạn trung bình toàn hệ thống đến cuối tháng 6/2023 ghi nhận giảm 1,1 – 1,3%/tùy kỳ hạn, so với thời điểm cuối năm 2022 và dự báo tiếp tục giảm nhẹ 0,5 – 0,7% tới cuối năm, giúp chi phí huy động của các ngân hàng giảm xuống.
Về huy động, số liệu từ VCBS cho thấy, đến cuối tháng 6/2023, huy động từ khách hàng tăng 3,99%, gần tương đương mức tăng trưởng tín dụng 4,03%. Tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm giúp cho thanh khoản hệ thống chịu mức áp lực thấp. Các chỉ số liên quan như: Tỷ lệ cho vay/tiền gửi (LDR), vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn hiện duy trì ở mức an toàn.
Về thu hút tiền gửi không kỳ hạn (CASA). Báo cáo của VCBS cho biết, toàn hệ thống ngân hàng ghi nhận tỷ lệ CASA giảm mạnh xuống 17,6% vào quý I/2023 do lãi suất tiền gửi có kỳ hạn tăng nhanh hấp dẫn dòng tiền chảy ra khỏi tài khoản thanh toán, cùng với việc các doanh nghiệp rút tiền phục vụ nhu cầu về vốn hoạt động và thực hiện thanh toán các nghĩa vụ tài chính, trong đó có mua lại trái phiếu doanh nghiệp trước hạn.
Lãi suất tiền gửi không kỳ hạn giảm xuống 0,29% từ mức đỉnh 0,41% trong tháng 10/2022, hiện tương đương mức trước dịch Covid, giúp chi phí CASA giảm về mức thấp.
"Các ngân hàng ghi nhận lượng khách hàng cá nhân thường xuyên dồi dào như: Vietcombank, MBB, Techcombank,… sẽ có được nguồn vốn huy động dồi dào hơn và và duy trì lợi thế chi phí vốn thấp. Chúng tôi cho rằng việc xu hướng lãi suất hạ nhiệt sẽ giúp cho tỷ lệ CASA toàn ngành cải thiện kể từ nửa sau của năm 2023”, VCBS nhận định.
Theo VCBS, NIM toàn ngành giảm từ mức 3,81% vào thời điểm cuối năm 2022, xuống 3,68% trong quý I/2023, do: Việc tăng lãi suất huy động đã bắt đầu được phản ánh vào NIM; tín dụng tăng chậm lại; các khoản nợ chậm trả có xu hướng gia tăng. NIM dự kiến tiếp tục thu hẹp trong quý II/2023 khi nguồn vốn huy động giá cao vẫn chưa được hấp thụ hết, đồng thời với việc nguồn vốn giả rẻ CASA giảm mạnh.
Nhận định cho nửa cuối năm, VCBS cho rằng, áp lực thu hẹp NIM sẽ hạ thấp, tuy nhiên mức độ cải thiện phân hóa giữa các nhóm ngân hàng, cụ thể: Nhóm 4 NHTM nhà nước NIM duy trì mức thấp do áp lực giảm lãi suất hỗ trợ nền kinh tế với các gói vay ưu đãi quy mô lớn từ đầu 2023; nhóm ngân hàng tư nhân có tập khách hàng cá nhân thường xuyên dồi dào có NIM tăng nhanh nhờ tỷ lệ CASA và tín dụng bán lẻ hồi phục khi mặt bằng lãi suất giảm dần; nhóm ngân hàng nhỏ thiếu hụt về thanh khoản trong giai đoạn trước NIM sẽ cải thiện rõ rệt khi các khoản tiền gửi lãi suất cao dần đáo hạn.
Trong bối cảnh áp lực thu hẹp NIM vẫn tồn tại thì thu nhập ngoài lãi cho thấy sự sụt giảm hầu hết ở các hoạt động chính. Trong quý I/2023, thu nhập ngoài lãi chiếm trung bình 20% trong cơ cấu thu nhập của các ngân hàng, giảm 21,7% so với cùng kỳ khi các hoạt động dịch vụ, đầu tư chứng khoán, thu hồi nợ xấu ngoại bảng đều gặp khó khăn. Để gia tăng thu nhập ngoài lãi, xu hướng toàn ngành là tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số, tăng cường hiệu quả quản trị, tiết giảm chi phí hoạt động để duy trì lợi nhuận và có dư địa giảm tiếp lãi suất.
Về chất lượng tài sản, báo cáo của VCBS cho biết, nợ xấu và nợ tiềm ẩn rủi ro tiếp tục tăng. Vào thời điểm cuối quý I/2023, tỷ lệ nợ xấu nội bảng tăng lên 1,9% từ mức 1,6% cuối 2022, tỷ lệ nợ nhóm 2 cũng tăng lên 2,1%. Tỷ lệ nợ ngoại bảng VAMC ở mức 1,1%. Chi phí tín dụng cũng tăng chậm lại khi các ngân hàng tích cực trích lập trước thời hạn cho các khoản nợ xấu tiềm tàng trong các quý trước.
“Tỷ lệ nợ xấu nội bảng và mức trích lập dự phòng dự kiến sẽ chưa tăng đột biến trong năm 2023 nhờ Nghị định 08 hỗ trợ gia hạn trái phiếu doanh nghiệp và Thông tư 02 cho phép tái cơ cấu các khoản vay”, báo cáo của VCBS nhận định và cho biết: “Hoạt động xử lý nợ xấu tiếp tục gặp khó khăn do thị trường bất động sản đóng băng và bất động sản là tài sản bảo đảm chính cho phần lớn các khoản vay”.
VCBS dự báo, rủi ro nợ xấu có thể tăng trở lại trong năm 2024 và có sự phân hóa: Nhóm ngân hàng chất lượng tài sản tốt sẽ ghi nhận nợ xấu và nợ tái cơ cấu kiểm soát ở mức vừa phải; nhóm ngân hàng có tỷ trọng cho vay bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp cao và có tỷ lệ bao phủ nợ xấu thấp có thể sẽ phải đối mặt với rủi ro nợ xấu và áp lực trích lập tăng cao trong năm 2024.
Trong bối cảnh nợ xấu và nợ tiềm ẩn rủi ro tiếp tục tăng, việc Nghị quyết 42 hết hiệu lực từ cuối năm 2023 đặt ra nhu cầu cấp thiết tiến tới xây dựng Luật xử lý nợ xấu sẽ là cơ chế giúp các ngân hàng khoanh nợ xấu, đẩy nhanh tiến độ xử lý tài sản tồn đọng và duy trì tỉ lệ nợ xấu nội bảng dưới mức 3%.
VCBS cũng cho rằng, trong nửa cuối năm 2023, việc lãi suất hạ nhiệt sẽ tạo động lực tăng cho nhu cầu tín dụng và kỳ vọng sẽ kéo tốc độ tăng trưởng tín dụng toàn ngành cải thiện mạnh mẽ so với nửa đầu năm 2023. Dẫu vậy, tăng trưởng tín dụng được dự báo sẽ đạt khoảng 12% trong năm 2023, do lãi suất cho vay ở mức cao và sức khoẻ tài chính của khách hàng suy giảm.
Về lợi nhuận, VCBS duy trì dự báo lợi nhuận trước thuế toàn ngành Ngân hàng giảm tốc trong năm 2023 với tốc độ tăng trưởng đạt khoảng 10%, trong đó có sự phân hóa về triển vọng lợi nhuận giữa các nhóm ngân hàng. Lợi nhuận tiếp tục có sự phân hóa mạnh trong 2024, một số ngân hàng thuộc nhóm quy mô nhỏ sẽ tiếp tục giảm tốc, thậm chí tăng trưởng âm trong năm 2024 trong trường hợp thị trường bất động sản và tình hình vĩ mô trên thế giới tiếp tục xấu đi khiến tín dụng chậm lại và khả năng trả nợ của khách hàng khó hồi phục, đồng thời với việc các thông tư và chính sách hỗ trợ hết hiệu lực.
“Chúng tôi đánh giá triển vọng đầu tư cổ phiếu ngành Ngân hàng đang ở mức phù hợp thị trường với định giá P/B toàn ngành hiện thấp hơn khoảng 20% so với mức trung bình 5 năm. Nhóm cổ phiếu có thể xem xét đầu tư trong dài hạn là các ngân hàng có chất lượng tài sản tốt và tốc độ tăng trưởng vượt trội so với ngành, bao gồm: ACB, BID, LPB, MBB, MSB, STB, VCB, VIB”, VCBS chia sẻ.